** Joyeuse – Thanh kiếm
huyền thoại của Charles Đại đế
- Thanh kiếm Joyeuse, là một trong những thanh kiếm nổi tiếng nhất
trong lịch sử. Hầu hết các ghi chép đều liên hệ thanh kiếm này với Charlemagne vĩ đại, vị vua của người Frank.
- Dù thanh kiếm Joyeuse này có
thực sự thuộc về vị vua
![]() |
Joyeuse, kiếm của Charlemagne |
nổi tiếng, người đã trị vì khoảng 1.200 năm trước đây hay
không, thì nó cũng đã được sử dụng trong vô số các nghi
lễ đăng
quang, gắn liền với huyền thoại và truyền thuyết cổ
xưa. Câu chuyện bắt đầu vào năm 802, truyền thuyết kể
rằng thanh kiếm Joyeuse có nghĩa là "vui vẻ" trong tiếng
Pháp, Đã được thợ rèn Galas nổi tiếng cặm cụi ba năm để
hoàn thành. thanh kiếm được mô tả với sức manh ma
thuật, sáng hơn cả ánh Mặt trời và có thể làm mù mắt kẻ
địch, bất kỳ người nào giữ thanh kiếm huyền thoại này sẽ
không bao giờ ngộ độc. Hoàng đế Charlemagne khi đang
trở về từ Tây Ban Nha đã dựng trại nơi thanh kiếm được
- Charlemagne (742-814
SCN), cũng được biết đến là
Charles Đại đế, vua của người Frank.
- Ông đã chủ trì
sự Phục hưng Carolingian. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, ông là người đầu
tiên hợp nhất Tây Âu. Ông trị vì một vương quốc rộng lớn bao trùm Pháp, Đức,
Ý, Áo ngày nay và các quốc gia nhỏ bé, đồng thời thống nhất Kitô giáo trong đế quốc rộng lớn của mình thông qua chuyển hóa bắt buộc. Ông thực
hiện đướng lối quân sự vô cùng tàn bạo, như chém đầu hơn 2.500 người
Frank và các thủ lĩnh người Saxon.
![]() |
Chalemagne-Charle đại đế (742-814 SCN) |
Trận đánh Roncevaux năm 778, diễn tả cảnh Charlemagne
cưỡi ngựa xung trận với thanh kiếm Joyeuse bên cạnh.
"Charlemagne mang bộ giáp với áo choàng trắng mịn và
chiếc mũ sắt nạm đá vàng; bên cạnh ông treo thanh kiếm
Joyeuse, không bao
giờ có một thanh kiếm tương xứng với
- Một ngày trong trận chiến,
Charlemagne mất thanh kiếm
Joyeuse và hứa sẽ trọng thưởng cho bất cứ ai có
thể tìm
thấy nó. Sau nhiều nỗ lực, một trong những binh sĩ của
ông đã mang nó
về, Charlemagne đã giữ lời hứa của mình,
nói: “Nơi đây sẽ được xây dựng
và ngươi sẽ là chủ của nó,
dòng dõi của ngươi sẽ lấy tên thanh kiếm
tuyệt vời của ta:
Joyeuse”.
- Charlemagne đã cắm thanh kiếm của
mình xuống đất để
đánh dấu địa điểm mà thị trấn đó sẽ được xây dựng. Theo
câu chuyện này, đây là nguồn gốc của thị trấn Joyeuse ở
Ardèche của Pháp, được
xây dựng tại vị trí này và có tên
- Không có ghi chép lịch sử nào nói
về thanh kiếm Joyeuse
sau cái chết của Charlemagne. Tuy nhiên, năm 1270, một
thanh kiếm được xác định là Joyeuse đã được sử dụng tại
lễ đăng quang của Vua
Pháp là Philip, lễ được tổ chức tại
Nhà thờ Reims, Pháp và cho nhiều vị vua
sau đó. Thanh
kiếm được cất giữ trong tu viện gần Thánh đường Denis,
nơi
chôn cất các vị vua Pháp, hiện vẫn nằm trong sự bảo vệ
của các nhà sư, ít
nhất cho đến năm 1505.
Ngày nay, có hai thanh kiếm được cho là kiếm Joyeuse.
Một thanh kiếm được lưu giữ ở kho báu Hoàng
Gia Schatzkammer Weltliche tại Vienna, Áo.
Ngày nay, có hai thanh kiếm được cho là kiếm Joyeuse.
Một thanh kiếm được lưu giữ ở kho báu Hoàng
Gia Schatzkammer Weltliche tại Vienna, Áo.
![]() |
Joyeuse, thanh kiếm được lưu giữ tại kho báu Hoàng Gia Schatzkammer Weltliche tại Vienna, Áo |
- Thanh còn lại được lưu giữ ở Bảo tàng Louvre vào ngày
5/12/1793 sau cuộc Cách mạng Pháp.
![]() |
Thanh kiếm Joyeuse tại Bảo tàng Louvre |
- Nó được vị vua Pháp là Charles X sử dụng lần cuối để
đăng quang vào năm 1824 và được biết đến với tư cách là
thanh kiếm phụng sự việc đăng quang của các vị vua
của nước Pháp.
![]() |
Vua Louis XIV với thanh kiếm Joyeuse năm 1701 |
Joyeuse có lưỡi kiếm đặc trưng
phong cách Oakeshott XII,
rộng, phẳng, thuôn nhọn. Núm chuôi kiếm từ thế kỷ
10 và
11, thanh ngang là nửa sau của thế kỷ 12 và chuôi cầm từ
thế kỷ 13.Chuôi kiếm từng có đường nét
hoa iris, nhưng đã
được gỡ bỏ tại lễ đăng quang của Napoleon I
được gỡ bỏ tại lễ đăng quang của Napoleon I
(Napoléon Bonaparte) vào năm 1804. Hai hình con rồng thế
kỷ 12 tại thanh ngang với đôi mắt bằng đá xanh. Bao kiếm
cũng biến đổi, đó là bao kiếm bằng nhung thêu hoa iris
được thêm vào tại lễ đăng quang của Charles X năm 1824.
Hai bên của núm chuôi kiếm được trang trí theo kiểu
Repoussé, tương tự như đồ trang trí của Scandinavi vào
thế kỷ thứ 10 và 11. Bao kiếm bằng vàng, phủ lưới kim
cương, được cho là có từ thế kỷ 13 hoặc 14.
![]() |
Thanh kiếm Joyeuse tại Bảo tàng Louvre |
thần khí đặc biệt được sử dụng trong suốt nhiều
thế kỷ.
Xuất hiện trong lễ đăng quang của các vị vua nước Pháp
hàng trăm năm qua, Joyeuse trở thành một biểu tượng cao
quý, đại diện cho sức mạnh và quyền lực. Ngày nay, Joyeuse đưa vào danh sách những thanh kiếm vĩ đại nhất trong lịch sử. Sau đây Minh Đức xin giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Charlemagne (Charle đại đế).
Xuất hiện trong lễ đăng quang của các vị vua nước Pháp
hàng trăm năm qua, Joyeuse trở thành một biểu tượng cao
quý, đại diện cho sức mạnh và quyền lực. Ngày nay, Joyeuse đưa vào danh sách những thanh kiếm vĩ đại nhất trong lịch sử. Sau đây Minh Đức xin giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Charlemagne (Charle đại đế).
*** Charlemagne – Charle Đại Đế
Các cuộc
chiến của Hoàng Đế Charlemagne:
*** Chiến
dịch Tây Ban Nha:
*** Chiến
dịch phía Đông:
*** Quân đội
của vương quốc Frank thời Carolingian:
![]() |
Charlemange (742-814) |
- Charlemagne (Carolus Magnus hoặc Karolus
Magnus) Có nghĩa là Charles the Great; (năm 742 – 28/01/814) là Vua của người Frank từ năm 768 và là Hoàng đế La Mã (Imperator Romanorum) Từ năm 800 đến khi chết ông đã mở rộng
vương quốc của người Frank thành một
đế chế gồm những kết hợp của nhiều vùng lãnh thổ của Tây và Trung Âu. Trong suốt
triều đại của mình, ông đã chinh phục Italy và được đăng quang
làm Imperator Augustus bởi
Giáo hoàng Leo III vào ngày 25/12/800. Sự kiện này tạm thời
làm cho ông ta trở thành đối thủ của Hoàng đế Byzantine ở Constantinople. Thời kỳ trị vì của ông cũng gắn liền
với thời Phục hưng Carolingian, Một sự
hồi sinh của nghệ thuật, tôn giáo, và văn hóa thông qua các phương tiện của
Giáo hội Công giáo. Thông qua các cuộc chinh phục ra nước ngoài và cải cách nội
bộ, Charlemagne đã giúp để xác định
hai vùng Tây và Trung Âu cổ. Ông được đánh số như Charles I trong danh sách regnal của Pháp và Đức (Tại Đức tên
ông được đọc như là Karl der Große)
và Đế chế La Mã Thánh thần.
- Là con trai của vua Pépin Lùn
và Bertrada của xứ Laon, Ông
kế vị cha mình và đồng cai trị với người anh trai Carloman I.
- Người này có mối quan hệ rất xấu với Charlemagne, nhưng nội chiến đã được
ngăn chặn bởi cái chết đột ngột của Carloman
trong năm 771. Charlemagne tiếp tục chính sách của cha ông và đã chở thành người
bảo hộ cho Đức giáo hoàng, ông đã loại bỏ quyền lực của triều đình Lombard ở Ý
(như đã nói ở phần trước Charles Martel
đã từng là đồng minh của vua xứ Lombard nên ông phải để cho cháu của mình diệt
xứ này ) và dẫn đầu một cuộc tấn công vào người Hồi giáo Tây Ban Nha, nơi mà ông đã được mời tới để giúp đỡ bởi viên thống
đốc Hồi giáo của Barcelona. Charlemagne
nhận được lời hứa hẹn là sẽ được tặng nhiều thành phố của Iberia khi
viện trợ về mặt quân sự cho viên thống đốc này, tuy nhiên thỏa thuận này đã bị
hủy bỏ. Sau đó, trong lúc rút lui quân đội của Charlemagne đã có kinh nghiệm về
một thất bại tồi tệ nhất của mình trước quân đội của xứ Basques, tại Trận Roncesvalles (778) memorialised,
mặc dù rất nhiều tiểu thuyết, Trường ca Roland. Ông cũng tiến hành các
chiến dịch để tấn công các dân tộc ở phía đông của vương quốc của mình, đặc
biệt là người Saxon, và sau một cuộc chiến tranh kéo dài họ đã phải nằm dưới sự
cai trị của ông. Bằng cách ép buộc chuyển họ phải chuyển sang đạo Thiên Chúa
giáo, ông đã tập hợp họ vào một vùng đất của mình và do đó đã dọn đường cho
triều đại Otto ( của người Đức ) sau này.
![]() |
Pépin le Bref (714-768) |
![]() |
Carloman 1 (... - 771) |
- Ngày hôm nay, ông không chỉ
được coi là người cha sáng lập của cả hai chế độ quân chủ ở Pháp và Đức ( chú ý
nước Đức ở đây là nước Áo – nước Đức hiện đại chỉ được thành lập ở thế kỷ 19
với nòng cốt là nước Phổ), mà còn là cha đẻ của châu Âu: Đế chế của ông đã
lần đầu tiên thống nhất được các lãnh thổ ở Tây Âu kể từ sự sụp đổ của đế chế
La Mã, và sự phục hưng của Carolingian
đã khuyến khích sự hình thành một bản sắc chung của châu Âu.
*** Bối cảnh
- Đến thế kỷ thứ 6 người Frank đã
được Ki tô hóa và vương quốc Frank được cai trị bởi triều đại Merovingians, nó trở thành một vương
quốc mạnh nhất và kế thừa của Đế quốc La Mã phương Tây. Nhưng sau trận Tertry, dòng Merovingians bị rơi vào trạng thái bất lực và họ thực chất không
làm vua nữa (Rois fainéants). Hầu như tất cả các quyền hạn và bất cứ một quyết
định nào của chính phủ đều được thực hiện bởi quan tể tướng hoặc Major Domus.
-- Năm 687, Pippin của Herstal (người bố của Charles Marrtel), quan tể tướng của vương quốc Austrasia, đã kết
thúc cuộc xung đột các vị vua khác nhau và các tể tướng của họ với chiến thắng
của mình tại Tertry và trở thành Tể tướng duy nhất của toàn bộ các vương quốc
Frank. Bản thân Pippin là cháu nội của hai nhân vật quan trọng nhất của Vương
quốc Austrasian, Saint Arnulf của
xứ Metz và Pippin của xứ
Landen. Pippin the Middle cuối cùng đã thành công bởi Charles – người con
trai ngoài giá thú của ông, sau này là Charles Martel (Hammer).
Sau năm 737, Charles điều hành các vương quốc Frank mà không lập một vị vua nào
lên ngôi nhưng không tự lập làm “vua”.
Charles nhường quyền kế vị cho con trai của ông – Carloman và Pépin Lùn – bố
của Charlemagne. Để kiềm chế sự ly
khai ở ngoại vi của vương quốc Frank hai anh em đã dựng lên ngai vàng vua Childeric III, người được coi là vị vua
cuối cùng của dòng Merovingian.
Sau khi Carloman (con của Charles Martel) từ bỏ chức vụ và đi tu, người anh em của ông, Pépin với sự chấp thuận của Giáo hoàng Zachary đã lật đổ Childeric III. Năm 751, Pépin được chọn và được xức dầu thánh tấn phong làm vua của người Frank và trong năm 754 Giáo hoàng Stephen II xức dầu thánh một lần nữa cho ông ta và người con trai trẻ của ông (người mà lúc này thừa kế tất cả các vùng đất rộng lớn bao phủ phần lớn phía Tây và Trung Âu. Như vậy là triều đại Merovingian đã bị thay thế bằng triều đại Carolingian, đây là triều đại được lấy theo tên cha của Pépin) Charles Martel (tên của Charles được phát âm thành Karle Karolingian).
![]() |
Charles Martel (686-741) |
Sau khi Carloman (con của Charles Martel) từ bỏ chức vụ và đi tu, người anh em của ông, Pépin với sự chấp thuận của Giáo hoàng Zachary đã lật đổ Childeric III. Năm 751, Pépin được chọn và được xức dầu thánh tấn phong làm vua của người Frank và trong năm 754 Giáo hoàng Stephen II xức dầu thánh một lần nữa cho ông ta và người con trai trẻ của ông (người mà lúc này thừa kế tất cả các vùng đất rộng lớn bao phủ phần lớn phía Tây và Trung Âu. Như vậy là triều đại Merovingian đã bị thay thế bằng triều đại Carolingian, đây là triều đại được lấy theo tên cha của Pépin) Charles Martel (tên của Charles được phát âm thành Karle Karolingian).
*** Ngày và nơi sinh:
-- Charlemagne
được cho là đã được sinh ra vào năm 742,
tuy nhiên có một số yếu tố để phải xem xét lại một cách chính xác ngày sinh.
Đầu tiên là năm 742 được dùng để
tính toán từ ngày ông mất hơn là dùng để xác nhận ngày sinh một cách chính xác.
Một sinh ngày được đưa ra trong quyển Annales
Petaviani, đó là ngày 02/04/747.
Trong năm đó, ngày 02/04 là ngày Lễ Phục Sinh. Sự ra đời của một hoàng đế
tại Eastertime là một sự trùng hợp có
khả năng gây ra những lời bình luận, nhưng không có nhận xét nào như vậy trong
các tài liệu của năm 747, làm cho
một số người nghi ngờ rằng ngày sinh nhật Phục Sinh là một cách làm sáng tạo để
tôn vinh vị hoàng đế. Một số nhà bình luận khác có một số hồ sơ ban đầu lại cho
rằng ông sinh ra vào một năm sau đó, năm
748. Hiện nay, người ta không thể chắc chắn về ngày sinh của Charlemagne. Các dự đoán tốt nhất có thể
là từ ngày 01/04/747 – 15/04/747,
hoặc ngày 01/04/748 tại xứ Herstal (Nơi cha của ông đã được sinh
ra, một thị trấn gần Liège ở nước Bỉ
ngày hiện đại), đây chính là nguồn gốc bắt đầu cho cả nhà Merovingian và lẫn nhà Carolingian.
Ông đến sống tại biệt thự của cha mình ở Jupille
khi ông được khoảng bảy tuổi, làm cho Jupille
được liệt kê vào như là một nơi mà có thể là nơi sinh của ông ở hầu hết các
cuốn sách lịch sử. Các thành phố khác cũng đã được đề xuất bao gồm Prüm, Düren,
Gauting và Aachen.
Được mệnh danh là Charles le Magne “Charles Đại đế”,
ông được đặt theo tên ông nội của mình (Charles Martel ). Tên gọi này xuất
phát từ tiếng Đức – karlaz “người đàn ông, thường dân tự do” biến thể của nó trong tiếng Đức – Kerl – “Người đàn ông,
chàng trai” tương tự như tiếng Anh
cổ churl. Tuy nhiên tên của ông
khi được chuyển sang dạng La tinh hóa lại là “Carolus” hoặc “Karolus”
*** Tính cách cá nhân:
-- Mặc dù không có miêu tả từ cuộc
đời của Charlemagne còn tồn tại,
tính cách cá nhân của ông thường được biết đến từ một mô tả của Einhard, tác giả cuốn tiểu sử Vita Karoli Magni (nhà viết sử
đương đại). Einhard nói trong chương
hai mươi hai của mình:
-- Ông là một con người có dáng vó
khôi vĩ, vững chắc và có tầm vóc đáng kể vì chiều cao của ông lên tới "bảy foot" và ông có một cái đầu tròn, đôi mắt to và sống động, một cái mũi hơi lớn hơn so
với bình thường, tóc màu trắng nhưng vẫn đẹp, thể hiện một sự tươi sáng và vui
vẻ với cái cổ ngắn và có nhiều mỡ và ông được thừa hưởng một sức khoẻ tốt,
ngoại trừ cơn sốt có ảnh hưởng đến ông ta trong vài năm cuối cùng của cuộc đời
mình. Vào lúc cuối đời ông bị kéo lê một chân, mặc dù vậy ông vẫn tỏ ra “cứng đầu” bằng cách làm những gì ông muốn và từ chối nghe theo lời khuyên
của các bác sĩ – ông ta rất ghét họ vì họ muốn thuyết phục ông ngừng ăn thịt
nướng và bắt ông phải ăn thịt luộc một kiểu nấu nướng mà ông không thích.
-- Bức chân dung về mặt vật lý
được cung cấp bởi Einhard được xác
nhận bởi những mô tả ở thời đương đại về hoàng đế, chẳng hạn như ở trên những
đồng tiền xu và tượng 8- inch bằng đồng của ông được giữ trong cung điện Louvre. Năm 1861, ngôi mộ của Charlemagne
đã được mở ra bởi các nhà khoa học để họ tạo lại bộ xương của ông và người
ta ước tính rằng cơ thể của ông cao khoảng 74,9
inch (190 cm). Một nghiên cứu hiện đại dựa trên kích thước xương ống chân
và ước tính chiều cao của ông là khoảng 1,84 m. Với chiều cao này thì ông cao
hơn 99 % những người đàn ông ở thời kỳ của ông vì chiều cao trung bình của nam
giới ở thời gian của ông là 1,69 m. Chiều rộng của xương hông cho thấy ông có
dánh bề ngang thanh mảnh và không thực sự có một cấu tạo cơ thể mạnh mẽ.
-- Charles cũng
được biết đến với bộ tóc dài trung bình, cao lớn, và trang nghiêm, với một cái
cổ to không tương xứng. Truyền thống vẽ chân dung cá nhân của La Mã lúc đó
thường chọn lúc nửa tối nửa sáng, để làm biểu tượng hóa những đặc điểm cá nhân
của người được vẽ tranh.
-- Charlemagne lại là một vị vua lý tưởng nên ông đã được miêu tả chân dung theo một phong cách tương ứng và tất cả các bức chân dung về ông thời kỳ này đều như vậy. Những bức tranh vẽ Charlemagne đăng quang, trở thành đại diện của Thiên Chúa Kitô trên trái đất … chịu nhiều những ảnh hưởng từ chân dung của Chúa Kitô hơn là về khuôn mặt thật của ông. Hình ảnh của Charlemagne trong những bức tranh của người đời sau (điển hình như của Dürer) thường được mô tả với mái tóc vàng chảy, vì ông đã mắc hiểu nhầm từ quyển sách của Einhard, người mô tả là có Charlemagne canitie Pulchra, hoặc là “tóc đẹp mầu trắng” và cũng đồng thời do phải thu thập thông tin từ nhiều bản dịch, thế là ông này kết luận rằng tóc của Charlemagne có mầu vàng.
-- Charlemagne lại là một vị vua lý tưởng nên ông đã được miêu tả chân dung theo một phong cách tương ứng và tất cả các bức chân dung về ông thời kỳ này đều như vậy. Những bức tranh vẽ Charlemagne đăng quang, trở thành đại diện của Thiên Chúa Kitô trên trái đất … chịu nhiều những ảnh hưởng từ chân dung của Chúa Kitô hơn là về khuôn mặt thật của ông. Hình ảnh của Charlemagne trong những bức tranh của người đời sau (điển hình như của Dürer) thường được mô tả với mái tóc vàng chảy, vì ông đã mắc hiểu nhầm từ quyển sách của Einhard, người mô tả là có Charlemagne canitie Pulchra, hoặc là “tóc đẹp mầu trắng” và cũng đồng thời do phải thu thập thông tin từ nhiều bản dịch, thế là ông này kết luận rằng tóc của Charlemagne có mầu vàng.
*** Trang phục:
-- Charlemagne
thường mặc trang phục truyền thống, không dễ thấy và rõ ràng không phải là
trang phục quý tộc của người Frank,
Mô tả bởi Einhard như sau:
![]() |
Charles Đại Đế 741 - 814 |
Ông thường mặc những trang phục
kiểu dân tộc đó là trang phục của người Frank:
đó là một chiếc áo vải lanh và quần vải lanh ống túm và bên ngoài là những
chiếc áo dài lụa tua, trong khi ống quần được cài chặt bởi các băng vải để che
đi cái chân bị tật (khi về già của ông) đi một đôi giày, ông bảo vệ và giữ ấm
cho vùng vai và ngực của mình ở mùa đông bởi một chiếc áo lót bằng da rái cá
hoặc Marten.
-- Ông mặc một chiếc áo choàng màu
xanh và luôn luôn mang theo một thanh kiếm trong mình. Đó là một thanh kiếm
điển hình với một chiếc cán kiếm vàng hoặc bạc. Ông thường đeo thanh kiếm ưa
thích để dự tiệc hoặc đón tiếp sứ giả nước ngoài. Tuy nhiên: Ông không thích
các trang phục của nước ngoài tuy rằng chúng là khá đẹp với ông và không bao
giờ tự cho phép mình được mặc các loại quần áo đó, ngoại trừ hai lần ở Rome,
khi ông mặc một chiếc áo Chlamys và
mang dép kiểu La Mã. Đây là lần đầu
tiên theo yêu cầu của Giáo hoàng Hadrian
và lần thứ hai để làm vừa lòng Giáo hoàng
Leo
-- Ông chỉ mặc những trang phục
lộng lẫy này trong những dịp cần thiết. Vào những ngày lễ lớn, ông mặc áo thêu
và đồ trang sức trên quần áo và giày của mình. Ông có một khóa vàng cho chiếc
áo choàng của mình trong những dịp như vậy và xuất hiện với một chiếc vương
miện rất lớn, nhưng ông cũng không khoái cách trang phục đó, theo Einhard –
Charlemagne thích ăn mặc giống như một người dân thường.
Các cuộc
chiến của Hoàng Đế Charlemagne:
*** Cuộc chinh phục xứ Lombardy:
-- Vua Charlemagne của người Frank là một người Công giáo mộ đạo, người đã duy trì một mối quan hệ chặt chẽ với các giáo hoàng trong suốt cuộc đời của mình. Năm 772, khi Giáo hoàng Hadrian I bị đe dọa bởi quân xâm lược, nhà vua đã mang quân đến Rome để cung cấp hỗ trợ. Trong bức ảnh này Đức Giáo Hoàng yêu cầu được Charlemagne giúp đỡ tại một cuộc họp gần Rome
-- Vua Charlemagne của người Frank là một người Công giáo mộ đạo, người đã duy trì một mối quan hệ chặt chẽ với các giáo hoàng trong suốt cuộc đời của mình. Năm 772, khi Giáo hoàng Hadrian I bị đe dọa bởi quân xâm lược, nhà vua đã mang quân đến Rome để cung cấp hỗ trợ. Trong bức ảnh này Đức Giáo Hoàng yêu cầu được Charlemagne giúp đỡ tại một cuộc họp gần Rome
-- Sau sự lên ngôi của Giáo hoàng Hadrian I năm 772, ông yêu cầu phải trả lại một
vài thành phố nhất định của cựu Tổng giám mục của Ravenna cho giáo Hoàng như theo một lời hứa của Desiderius. Desiderius thay vì chuyển quyền tiếp quản các thành phố đó cho Giáo
hoàng lại tiến hành một cuộc xâm lược vào Pentapolis
và hướng vào Rome. Hadrian gửi
sứ giả đến chỗ Charlemagne vào mùa
thu để yêu cầu ông thực thi các chính sách của cha mình – nhà vua Pippin. Desiderius gửi sứ giả của ông đến để phủ
nhận các cáo buộc của Giáo hoàng. Cả hai viên sứ giả đã gặp nhau tại Thionville và Charlemagne đã tôn trọng
lời yêu cầu của Giáo hoàng. Charlemagne
kịp thời thực hiện những gì Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu và đã thề không bao giờ
để cho Desiderius kịp làm điều gì. Charlemagne và chú của mình là Bernard vượt qua dãy Alps ở năm 773 và đuổi người Lombard
trở lại Pavia, và sau đó đã bao
vây họ. Charlemagne tạm rời phải hủy
bỏ cuộc bao vây để đối phó với Adelchis,
con trai của Desiderius, người đã gây
dựng một đội quân tại Verona. Vị
hoàng tử trẻ tuổi đã bị đuổi đến vùng duyên hải Adriatic và ông này phải trốn sang tận Constantinople để xin được hỗ trợ từ Constantine V, người đang tiến hành một cuộc chiến tranh với
người Bulgaria.
-- Cuộc bao vây kéo dài cho đến
mùa xuân năm 774, khi Charlemagne viếng thăm Đức Giáo Hoàng ở
Rôma. Ở đó ông xác nhận khoản tài trợ của cha mình về đất đai với một số biên
niên sau đó tuyên bố, tuyên truyền giả dối, rằng ông cũng mở rộng cho họ, cấp
giấy Tuscany, Emilia, Venice và Corsica.
Đức Giáo Hoàng đã cấp cho ông danh hiệu quí tộc. Sau đó ông trở
về Pavia nơi mà người Lombard đã
trên bờ vực của sự đầu hàng.
-- Để đổi lại lấy cuộc sống của
họ, người Lombard xin đầu
hàng và mở rộng các cửa thành vào đầu mùa hè. Desiderius được gửi đến tu viện Corbie
và Adelchis con trai ông đã chết
ở Constantinople. Charles một cách bất ngờ đã tự mình lên
ngôi với Iron Crown và đòi các công
quốc của xứ Lombardy phải cống nộp và
tỏ lòng kính trọng với ông lúc ở Pavia.
Chỉ có công tước Arechis II
của Benevento là từ chối cống nộp và tuyên bố độc lập. Charlemagne sau đó đã được xuy tôn ở
Italia như là vua của người Lombard.
Ông rời Italia với một đơn vị đồn trú ở Pavia và một vài đội quân người Frank quanh đó.
-- Hiện vẫn còn bất ổn, tuy nhiên,
ở Italia. Năm 776, Các công tước Hrodgaud của xứ Friuli và Hildeprand của Spoleto nổi loạn. Charlemagne vội chạy về từ Saxony và đánh bại công tước xứ Friuli trong trận chiến và giết
chết ông này. Công tước của xứ Spoleto phải
ký một hiệp ước đồng minh với ông. Arechis
không chịu khuất phục và Adelchis,
ứng cử viên của họ thì vẫn phải ở lại Hy Lạp và không bao giờ có thể rời khỏi
thành phố này. Miền Bắc Italy giờ đây đã trung thành với Charlemagne.
*** Miền Nam nước Ý:
-- Trong năm 787 Charlemagne hướng
sự chú ý về phía Benevento, nơi Arechis đang trị vì một cách độc lập. Charlemagne bao vây Salerno và Arechis phải xin được lệ thuộc. Tuy nhiên sau cái chết của ông (
Arechis) vào năm 792, Benevento một lần nữa tuyên bố độc
lập dưới sự lãnh đạo của con trai ông – Grimoald III. Grimoald bị tấn công bởi quân đội của Charles hoặc con trai của ông
ta nhiều lần nữa nhưng bản thân Charlemagne
không bao giờ trở lại Mezzogiorno và
Grimoald đã không bao giờ bị buộc phải đầu hàng trước quyền bá chủ của
người Frank.
*** Charles và các con:
-- Trong thời kỳ hòa bình đầu tiên
(780-782), Charles bắt đầu bổ nhiệm con trai của ông vào vị trí của chế độ
theo truyền thống của các vị vua và các Tể tướng từ trước đó. Năm 781, ông đã phong vương cho hai
người con trai trẻ của mình và họ được đăng quang bởi Đức Giáo Hoàng. Người cao
tuổi hơn trong hai người con – Carloman
– làm Vua của Ý và nhận chiếc vương
miện mà người cha của ông lần đầu tiên đội trong năm 774 và trong cùng một buổi lễ người con này được đổi tên thành “Pippin.” Người con trẻ thứ hai Louis đã
trở thành vua của xứ Aquitaine.
Charlemagne đã ra lệnh rằng Pippin và Louis phải được trưởng thành theo tập quán của vương quốc của họ và ông đã cho họ nhiếp chính và kiểm soát một số vương quốc chư hầu của họ, nhưng thực tế quyền lực là luôn ở trong tay của ông, mặc dù ông dự định con trai của ông kế thừa bờ cõi của họ trong một ngày nào đó. Có thể là do ông phải chịu đựng sự bất phục tùng của các con trai của mình vào năm 792, ông đã trục xuất người con trai cả của ông, và gửi Pippin Gù – người con trai trẻ ngoài giá thú của ông đến tu viện Prüm, bởi vì người thanh niên trẻ này đã tham gia một cuộc nổi loạn chống lại ông.
Charlemagne đã ra lệnh rằng Pippin và Louis phải được trưởng thành theo tập quán của vương quốc của họ và ông đã cho họ nhiếp chính và kiểm soát một số vương quốc chư hầu của họ, nhưng thực tế quyền lực là luôn ở trong tay của ông, mặc dù ông dự định con trai của ông kế thừa bờ cõi của họ trong một ngày nào đó. Có thể là do ông phải chịu đựng sự bất phục tùng của các con trai của mình vào năm 792, ông đã trục xuất người con trai cả của ông, và gửi Pippin Gù – người con trai trẻ ngoài giá thú của ông đến tu viện Prüm, bởi vì người thanh niên trẻ này đã tham gia một cuộc nổi loạn chống lại ông.
-- Charles được
cho là đã giáo dục các con mình tương đối tốt, bao gồm cả con gái của ông. Các
con của ông đã được giảng dạy tất cả các nghệ thuật, và con gái của ông được
học về công việc của phụ nữ. Con trai của ông được học bắn cung, cưỡi ngựa, và
các hoạt động ngoài trời khác.
-- Các con trai của ông đã phải
tham gia chiến đấu nhiều cuộc chiến tranh thay mặt cho cha của họ khi họ đến
tuổi trưởng thành. Charles lúc này cố
gắng để chinh phục người Bretons những
người có chung đường biên giới với mình, tấn công họ ít nhất hai lần, ông cũng
đã tổ chức rất nhiều đợt tấn công vào người Saxons. Trong 805 và 806 ông gửi quân vào xứ Böhmerwald (Xứ Bohemia hiện
đại) để đối phó với người Slav sinh
sống ở đó (Séc). Ông bắt họ phải quỳ gối trước người Frank và tàn phá thung lũng Elbe, khiến họ phải cống nộp. Pippin
đã phải giữ vùng biên giới với vùng Avar
và Beneventan nhưng cũng phải chiến
đấu với người Slav ở phía bắc. Ông là
người duy nhất sẵn sàng để chiến đấu chống lại Đế quốc Byzantine khi cuộc xung đột phát sinh sau ngày đăng quang của hoàng
đế Charlemagne và một cuộc nổi loạn
của người Venetian. Cuối cùng, Louis phải quản lý Spanish March và cũng phải đến miền nam nước Ý để chống lại công
tước của Benevento ít nhất một lần. Ông lấy
được Barcelona trong một cuộc bao vây lớn trong năm 797.
-- Thái độ của Charlemagne đối với con gái của ông chủ
đề của nhiều cuộc thảo luận. Ông nhốt họ ở nhà với và từ chối cho phép họ lấy
chồng theo kiểu môn đăng hậu đối –
Có thể để ngăn chặn việc tạo ra các chi nhánh nhỏ để tránh cạnh tranh với nhánh
chính của gia đình, cũng như trường hợp với Tassilo
của Bayern – Nhưng ông chấp nhận
mối quan hệ ngoài hôn nhân của họ, thậm chí ông chấp nhận việc họ lấy chồng là
những người bình thường và trân trọng những người con ngoài hôn nhân mà họ có.
Ông cũng có, rõ ràng, không tin câu chuyện của hành vi hoang dã của mình. Sau
khi ông chết những người con gái còn sống bị gom lại bởi tòa án của các anh
trai của mình – Louis Ngoan đạo – để về sống trong một tu viện mà họ đã
được thừa kế của cha mình. Ít nhất một trong số họ, Bertha, đã có một mối quan hệ được công nhận, nếu không phải là một
cuộc hôn nhân, với Angilbert, một
thành viên của ủy ban tòa án của Charlemagne.
*** Chiến
dịch Tây Ban Nha:
** Chiến dịch Roncesvalles:
-- Theo các sử gia Hồi giáo Ibn al-Athir, the Diet of Paderborn đã gặp
sứ giả của thủ lĩnh Hồi giáo cai trị cai trị các xứ Zaragoza, Girona, Barcelona và Huesca. Tôn chủ của họ đã
bị dồn vào một góc ở bán đảo Iberia bởi
Abd ar-Rahman I, Quốc vương của Umayyad xứ Córdoba. Những thủ lĩnh người
Moor hoặc người “Saracen” cai trị xin
dâng đất của họ để tỏ lòng tôn kính và để trả cho sự ủng hộ quân sự của nhà vua
vĩ đại của Frank. Nhìn thấy một cơ
hội để mở rộng Cơ đốc giáo và quyền lực của mình và tin rằng Saxons là một quốc gia hoàn toàn đã bị
chinh phục, ông đồng ý hành quân tới Tây Ban Nha.
-- Năm 778, ông
dẫn đầu quân đội Neustrian đèo Pyrenees ở hướng Tây, Trong khi quân đội
của các vương quốc Austrasians, Lombard và Burgundy vượt qua hướng Đông của dãy núi Pyrenees. Các đội quân đã hội binh ở Zaragoza và Charlemagne
đã nhận được sự tôn kính của các nhà cai trị người Hồi giáo, Sulayman al-Arabi và Kasmin Yusuf ibn, nhưng thành phố đã
không mở cửa để đón ông. Thật vậy,
Charlemagne
đã phải đối mặt với trận chiến khó khăn nhất trong sự nghiệp của mình, nơi
người Hồi giáo đã chiếm ưu thế và buộc ông phải rút lui. Ông quyết định rút lui
về nhà, kể từ đó ông không bao giờ tỏ ra tin tưởng người xứ Basques, những
người mà ông đã đánh bại khi chinh phục xứ Pamplona. Sau đó ông quay ra và rời khỏi xứ Iberia, nhưng ông đi qua chiếc đèo Roncesvalle thì một trong những sự kiện
nổi tiếng dưới triều đại lâu dài của ông đã xảy ra. Người xứ Basques kéo ùa vào
hậu đội và đoàn chở hành lý của ông và tiêu diệt hoàn toàn họ. Trận đèo Roncevaux thực sự không phải là một trận
chiến mà là một cuộc tàn sát làm cho nhiều người nổi tiếng bị giết chết: trong
số đó là seneschal Eggihard, bá tước
của cung điện Anselm và chỉ huy của
lực lượng kỵ binh Breton – Roland – đây chính là cảm hứng để các nhà thơ đương thời sáng tác bài
Trường ca của Roland (La Chanson de
Roland).
** Cuộc chiến tranh với người
Moor:
-- Cuộc chinh phục của Ý đã đạo
điều kiện cho Charlemagne tiếp xúc
với người Saracen vào thời điểm đó
đang kiểm soát vùng Địa Trung Hải. Pippin
con trai của ông có quá nhiều bận rộn với người Saracen ở Italia. Charlemagne
chinh phục các đảo Corsica và Sardinia rồi Quần đảo Balearic vào năm
799. Các đảo này thường bị cướp biển người Saracen tấn công nhưng các công tước các xứ Genoa và Tuscany (Boniface)
đã bố trí một hạm đội lớn ở trong vịnh để giữ yên các đảo này cho đến cuối
triều đại của Charlemagne. Charlemagne thậm chí đã có liên lạc với caliphal của Baghdad. Năm 797 (hoặc 801), khalip của Baghdad – Harun
al-Rashid – đã cống nộp cho Charlemagne một con voi châu Á được đặt
tên là Abul-Abbas và một chiếc đồng
hồ.
-- Tại Hispania các trận chiến chống lại người Moor tiếp tục nổ ra mà không hề xuy giảm cường độ trong suốt nửa
cuối của triều đại của ông. Louis con trai của ông quản lý biên giới Tây Ban
Nha. Năm 785, quân đội của ông đã
chiếm giữ Gerona một cách
lâu dài và mở rộng quyền kiểm soát của người Frank vào duyên hải Catalan
trong thời gian cai trị của Charlemagne
( và nó thuộc về người Frank cho đến Hiệp ước Corbeil năm 1258). Các
thủ lĩnh của tín đồ Hồi giáo ở phía đông bắc Tây Ban Nha đã liên tục chiến đấu
chống lại quyền lực của xứ Córdobar
và họ thường kêu gọi sự giúp đỡ của người Frank. Biên giới của người Frank được
mở rộng một cách từ từ cho đến năm 795,
khi Gerona, Cardona, Ausona và Urgel được
thống nhất vào Tây Ban Nha March mới
trong lảnh địa cũ Septimania.
-- Trong năm 797 Barcelona, thành phố lớn nhất của vùng này rơi vào tay
người Frank khi Zeid, thống đốc của nó nổi dậy chống lại Tiểu vương Córdoba và thất bại nên phải giao thành phố cho họ. Quân
đội của Umayyad chiếm lại nó trong năm 799. Tuy nhiên Louis của xứ Aquitaine đã
mang toàn bộ quân đội của vương quốc của mình đèo Pyrenees và bao vây nó được hai năm, từ mùa đông năm 800-> 801 khi nó đầu hàng. Người
Frank tiếp tục tiến tới để tấn công Tiểu vương Ả rập. Họ đã chiếm được Tarragona trong năm 809 và Tortosa trong năm 811.
Các cuộc chinh phục cuối cùng đưa họ đến cửa của xứ Ebro và tạo điều kiện cho họ tấn công đến tận Valencia, khiến Tiểu vương al-Hakam I phải chịu thua
trước cuộc chinh phục của họ trong năm
812.
*** Chiến
dịch phía Đông:
** Chiến tranh với người Saxon:
-- Charlemagne đã
tham gia vào các trận chiến gần liên tục trong suốt triều đại của ông, và
thường ở vị trí đầu tiên của đội vệ sỹ SCARA tinh
hoa của ông với thanh kiếm huyền thoại
Joyeuse của mình trong tay. Sau ba mươi năm chiến tranh và những 18 trận
đánh trong – chiến tranh Saxon – Ông đã chinh phục xứ Saxon và tiếp
tục chuyển đổi những người bị chinh phục sang Kitô giáo, đôi khi ông cũng phải
sử dụng cả vũ lực để chuyển đạo.
-- Người Saxon được chia thành bốn
nhóm trong bốn khu vực. Gần vương quốc Austrasia nhất
là xứ Westfalen và xa hơn nữa là Eastphalia. Ở giữa hai vương quốc là Engria và ở phía Bắc của cả ba xứ này,
tại bán đảo Jutland là Nordalbingia.
-- Trong chiến dịch đầu tiên của
mình, Charlemagne buộc Engrian phải quy hàng năm 773 và cắt đi một trụ cột của Irminsul ở gần Paderborn. Chiến dịch đã bị cắt ngắn lại do chuyến viễn chinh đầu
tiên của ông tới Italy. Ông trở lại vào năm 775, hành quân qua Westphalia và
chinh phục pháo đài Sigiburg của xứ Saxon. Sau đó, ông vượt qua Engria và đánh bại người Saxon
một lần nữa. Cuối cùng tại Eastphalia,
ông lại đánh bại một lực lượng Saxon
nữa và thủ lĩnh của nó Hessi phải
chuyển đổi sang Kitô giáo. Ông trở lại qua Westphalia, sau khi xây dựng các doanh trại ở Sigiburg và Eresburg và
sau đó chúng đã trở thành các pháo đài quan trọng của người Saxon. Tất cả các vùng của người Saxon trừ Nordalbingia đã bị ông ta kiểm soát, nhưng sự kháng cự của người
Saxon vẫn không kết thúc.
-- Sau chiến dịch của mình tại
Italia để chinh phục các công tước Friuli
và Spoleto, Charlemagne nhanh chóng quay trở lại Saxony vào năm 776, nơi
một cuộc nổi loạn đã bị tiêu diệt ở pháo đài của Eresburg. Người Saxon lại
một lần nữa phải quỳ gối, nhưng người lãnh đạo chính của họ, công tước Widukind, đã cố gắng để thoát tới Đan
Mạch, quê nhà của vợ ông. Charlemagne xây
dựng một doanh trại mới tại Karlstadt.
Năm 777, đặt một national diet tại Paderborn để quy tập đầy đủ người Saxon vào vương quốc Frank. Nhiều người Saxon đã chấp nhận được rửa tội.
-- Vào mùa hè năm 779, ông lại xâm lược và chinh phục các xứ Eastphalia, Engria và Westphalia của
người Saxon. Tại một diet gần Lippe, ông chia đất cho các nhà truyền
giáo và tự nguyện hỗ trợ cho các lễ rửa tội hàng loạt (năm 780). Sau đó ông trở về Ý và, lần đầu tiên không có cuộc nổi
dậy nào nổ ra ngay lập tức ở Saxon. Trong năm
780 Charlemagne ra lệnh tử hình
tất cả những người Saxon không chịu
rửa tội, những người không chịu tham dự các ngày lễ của Kitô giáo và những người
dùng hỏa táng cho người nhà của họ. Sachsen có hòa bình từ năm 780 - 782.
-- Ông trở lại Saxon vào năm 782 để thiết lập hệ thống lập pháp và bổ nhiệm các công tước ở
cả Saxon và Frank. Các đạo luật rất
khắc nghiệt về vấn đề tôn giáo và tôn giáo đa thần của người Đức bản địa đã bị
đe dọa nghiêm trọng bởi Kitô giáo hóa. Điều này khuấy động một cuộc xung đột
mới. Năm đó vào mùa thu Widukind trở
lại và lãnh đạo một cuộc nổi dậy mới, kết quả là có một số cuộc tấn công vào
các nhà thờ. Để đáp lại tại Verden
ở xứ Hạ Saxony, Charlemagne bị cáo buộc đã ra lệnh chặt đầu người 4.500 người Saxon vì theo ngoại giáo bản
địa của họ sau khi đã chuyển sang Thiên Chúa giáo, đây chính là vụ Thảm sát Verden (“Verdener Blutgericht”).
Vụ thảm sát gây ra ba năm chiến tranh đẫm máu mới (từ 783 - 785). Trong cuộc chiến tranh cuối cùng FRISIANS cũng đã bị chinh phục và một
phần lớn hạm đội của họ đã bị đốt cháy. Chiến tranh kết thúc với việc Widukind chấp nhận phép rửa tội.
-- Sau đó người Saxons duy trì hòa bình trong bảy năm,
nhưng trong năm 792 xứ Westphalians một lần nữa đứng lên để
chống lại kẻ xâm lược. Các xứ Eastphalian
và Nordalbingian tham gia với họ vào năm
793, nhưng các cuộc khởi nghĩa đã không thắng lợi và bị đàn áp vào năm 794. Một cuộc nổi loạn ở Engrian lại diễn ra vào năm 796, nhưng với sự hiện diện của cá
nhân Charlemagne và Thiên chúa giáo
và ngững người Saxon cùng Slav theo Thiên chúa giáo đã nhanh chóng nghiền nát nó. Các cuộc
nổi dậy cuối cùng của những người có xu hướng độc lập nổ ra vào năm 804, hơn ba mươi năm sau khi nổ ra
chiến dịch đầu tiên của Charlemagne
để chống lại họ. Lần này, những người Nordalbingian
ngang bướng nhất cũng cảm thấy không có hiệu quả từ các cuộc nổi loạn. Theo
Einhard:
-- Cuộc chiến kéo dài nhiều năm đã
kết thúc khi người Saxon chấp nhận
các điều khoản được đưa ra bởi nhà vua, đó là từ bỏ tôn giáo truyền thống của
họ và từ bỏ tôn thờ quỷ dữ, chấp nhận các bí tích của đức tin tôn giáo của Kitô
giáo và hội nhập với người Frank để
tạo nên một con người.
** Chiến dịch Avar:
-- Năm 788
người Avar, một bộ tộc ngoại đạo
người châu Á đã tràn xuống vùng mà ngày nay là Hungary (Einhard gọi
họ là rợ Hung), xâm chiếm Friuli và Bavaria.
Charlemagne có nhiều thứ phải bận tâm cho đến năm 790, trong năm đó, ông đã hành quân xuống Danube và tiến vào lãnh thổ của họ và tàn phá đến tận Raab. Sau đó một đội quân Lombard theo Pippin hành quân vào
thung lũng Drava và tàn phá xứ Pannonia. Các chiến dịch vẫn còn tiếp
tục nếu người Saxon không nổi dậy một
lần nữa vào năm 792 và phá vỡ bảy
năm hòa bình.
-- Trong hai năm tới, Charlemagne chiếm đóng những người Slav và chống lại người Saxon. Tuy nhiên Pippin và Công tước Eric
của Friuli vẫn tiếp tục tấn công vào các pháo đài hình tròn của
người Avar. Chiếc nhẫn hình tròn của
người Avar vốn cũng là thủ đô của họ,
đã bị công chiếm hai lần. Nhiều chiến lợi phẩm đã được gửi về thủ đô cho Charlemagne, Aachen và phân
chia cho tất cả những người theo ông và thậm chí cả những thủ lĩnh người nước
ngoài bao gồm cả vua Offa của xứ Merc. Chẳng bao lâu thủ lĩnh của người Avar phải ra khỏi pháo đài và đi
đến Aachen và xưng thần với
Charlemagne và gia nhập Thiên chúa
giáo. Charlemagne đã chấp nhận và gửi
một thủ lĩnh người bản địa đã được rửa tội tên là Abraham trở lại Avaria
với danh hiệu Khagan. Abraham đã kiểm
soát được của mình, nhưng trong năm 800
người Bulgaria theo Khan Krum đã
ùa vào và quét sạch người Avar đi.
Trong thế kỷ thứ 10 người Magyar lại tràn vào chiếm đóng đồng
bằng Pannonia và tạo ra một
mối đe dọa mới cho con cháu của Charlemagne.
*** Các cuộc chinh phục
phía Đông Bắc Slav:
-- Năm 789, để
nắn gân những người hàng xóm ngoại đạo mới của mình, người Slav, Charlemagne cử một
đội quân Austrasian-Saxon qua
sông Elbe vào lãnh thổ Obotrite. Người Slavơ ngay lập tức gửi lãnh đạo của họ – Witzin đến xin hàng
phục. Charlemagne đã chấp nhận sự đầu
hàng của Wiltze trước Dragovit và yêu cầu gửi nhiều con tin và
cho phép để gửi nhiều nhà truyền giáo vào các khu vực ngoại đạo. Quân đội hành
quân đến Baltic trước khi chuyển xung
quanh và đi vào sông Rhine với
nhiều chiến lợi phẩm không sách nhiễu dân chúng. Các nhánh người Slavơ đã trở thành đồng minh trung
thành. Năm 795, hòa bình bị phá vỡ
bởi người Saxons, các thủ lĩnh Abotrites và Wiltzes siết chặt vòng tay với chúa tể mới của họ để chống lại
người Saxon. Witzin chết trong chiến
trận và Charlemagne trả thù cho ông
này bằng cách harrying Eastphalians
ở Elbe. Thrasuco, người kế nhiệm ông, đã dẫn người của mình để chinh phục
vượt qua xứ Nordalbingians và đưa các
nhà lãnh đạo của họ, những người rất tôn vinh ông đến gặp Charlemagne. Người Abotrites vẫn
trung thành với Charlemagne cho đến
khi ông chết và sau đó đã chiến đấu chống lại người Đan Mạch.
*** Các cuộc chinh phục
Đông Nam Slav:
-- Khi mà Charlemagne bận rộn quá lâu ở Trung tâm Châu Âu, ông đã để vương
quốc của người Frankish phải mặt đối
mặt với người Avar và người Slav ở phía đông nam. Quốc gia láng
giềng gần nhất phía đông nam của người Frank
là Croatia, những người định cư tại Pannonian
Croatia và Công quốc Littoral Croatia.
Trong khi chiến đấu với người Avar,
người Frank đã kêu gọi sự hỗ trợ của
họ. Trong những năm 790 khi Charlemagne tiến hành các chiến dịch
chống lại người Avar, ông đã giành
được một chiến thắng lớn trong năm 796.
Công tước Vojnomir của Croatia Pannonian đã hỗ trợ Charlemagne và người Frank chở thành chúa tể
từ Croatia tới miền Bắc Dalmatia, Slavonia và Pannonia.
-- Thủ lĩnh của người Frankish Eric của xứ Friuli muốn mở rộng lãnh địa của mình bằng cách chinh phục công quốc Littoral Croatia. Trong thời gian đó, Littoral Croatia được cai trị bởi công tước Višeslav của Croatia, Một trong những công tước đầu tiên rất nổi tiếng của người Croatia. Trong Trận Trsat lực lượng của Eric đã phải bỏ chạy khỏi vị trí của họ và đã hoàn toàn bị tiêu diệt bởi lực lượng của Višeslav. Bản thân Eric cũng là một trong số những giết chết và cái chết cùng sự thất bại của ông đã được chứng minh là một đòn mạnh giáng vào đế chế Carolingian.
-- Charlemagne cũng hướng sự chú ý của mình vào những tộc người Slav ở phía tây của khaganate Avar: đó là các bộ tộc Carantanian và Carniolan. Những người này bị khuất phục bởi người Lombard và Bavarii, họ cũng đã xin quy phục nhưng chưa bao giờ hội nhập hoàn toàn vào vương quốc Frank.
-- Thủ lĩnh của người Frankish Eric của xứ Friuli muốn mở rộng lãnh địa của mình bằng cách chinh phục công quốc Littoral Croatia. Trong thời gian đó, Littoral Croatia được cai trị bởi công tước Višeslav của Croatia, Một trong những công tước đầu tiên rất nổi tiếng của người Croatia. Trong Trận Trsat lực lượng của Eric đã phải bỏ chạy khỏi vị trí của họ và đã hoàn toàn bị tiêu diệt bởi lực lượng của Višeslav. Bản thân Eric cũng là một trong số những giết chết và cái chết cùng sự thất bại của ông đã được chứng minh là một đòn mạnh giáng vào đế chế Carolingian.
-- Charlemagne cũng hướng sự chú ý của mình vào những tộc người Slav ở phía tây của khaganate Avar: đó là các bộ tộc Carantanian và Carniolan. Những người này bị khuất phục bởi người Lombard và Bavarii, họ cũng đã xin quy phục nhưng chưa bao giờ hội nhập hoàn toàn vào vương quốc Frank.
*** Quân đội
của vương quốc Frank thời Carolingian:
-- Theo phong tục truyền thống
của chủng người German, lực
lượng vũ trang của người Carolingian
được huy động cho mỗi chiến dịch trong mùa xuân và mùa hè. Hoàng
Đế Charlemagne như là
một lãnh chúa Frank có quyền
gọi vào quân đội tất cả những người tự do – đến 60 tuổi-cho một chuyến viễn chinh. Binh sỹ nghĩa vụ được điểm
danh bằng cách đếm đầu người. Nếu có bất cứ ai
không chịu tham gia tập hợp, tiền phạt sẽ
rất nặng và trừng phạt nặng tay có thể được áp dụng, nhưng những
người chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra, đo đếm thường xuyên bị cáo
buộc là nhận hối lộ và thường tiến hành biện pháp cưỡng chế
trong quá trình tập hợp lính nghĩa vụ. Tập quán thường
là quân đội được tập hợp vào mùa xuân và nó sẽ được duy
trì hoạt động trong vòng 3-6 tháng. Quân đội được tập
trung vào cuối tháng 5 để cho phép tuyết tan từ vùng
sâu vùng xa và có cỏ tốt để vỗ béo cho ngựa. Các chiến dịch sẽ
bị ngừng lại trong mùa đông, mặc dù các cuộc vây hãm có
thể vẫn được duy trì nếu thấy cần thiết. Chỉ có những người
giàu nhất trong số những người tự do có thể trở thành
những chiến binh (hiệp sỹ ) vì họ có tiền để tài
trợ cho vũ khí của mình, các trang thiết bị quân sự
và binh lính của mình. Họ không được trả lương nhưng được
trả bằng một phần chiến lợi phẩm, và tài sản được lấy từ
những kẻ thù bị đánh bại. Phương pháp phân chia chiến lợi phẩm này
giữa các binh sĩ là một phương pháp khá thường xuyên. Phần
lớn số chiến lợi phẩm sẽ thuộc về giới quý tộc, tất nhiên, nhưng mỗi
người lính có thể nhận được phần thưởng của mình khi công chiếm một vị trí
nào đó hoặc tước được trên xác của đối phương bị giết chết trên
chiến trường.
-- Các chư hầu tuyên thệ nhậm chức
và được ban cho các thái ấp –
đây là một mô hình đã được hiện thực trong thời đại của Charles Hammer – và vẫn tiếp tục được mở rộng dưới
thời của Charlemagne. Trong một
thời kỳ nền kinh tế tự cung tự cấp không cần đến tiền, và với các cấu trúc
thô sơ của bộ máy hành chính, cách dễ nhất để duy trì một thứ
hạng của các chiến binh là phải cho thuê đất cho người phụ
thuộc, những người vừa hết hạn phục vụ quân sự. Các chư hầu trực
tiếp của nhà vua – thường là
những người đàn ông của những gia đình tốt. Charlemagne dựa nhiều vào sự phục vụ của họ cho mục đích
quân sự, nhưng đồng thời ông cũng không muốn họ trở nên quá độc lập.
Tình trạng ban đầu của họ là không an toàn và không ổn định tùy thuộc vào ý
muốn của quốc vương. Cuối cùng các chư
hầu đã bén rễ được vào các đất phong của họ
và cuối cùng trở thành vị thủ lĩnh quan trọng cai trị ở địa
phương.
-- Tổng số lực lượng của
quân đội Carolingian có
thể là không nhiều, có thể chỉ là vài ngàn chiến binh.
Những con số rất lớn được đưa ra bởi biên niên sử trung cổ miêu tả hàng
nghìn hiệp sĩ dũng cảm chiến thắng hàng trăm ngàn kẻ thù độc ác được viết trong
nhiều thế kỷ sau đó (nên không có tính chính xác). Họ không phản ánh thực
tế mà chỉ dự định để gây ấn tượng với người đọc bằng phong cách tu
từ, ngụ ngôn, và sử thi.
-- Xem xét về
mặt chiến tranh, vũ khí trang bị, thiết bị và từ khoảng thời
gian bắt đầu của người Frank tới
khoảng thời gian vương quốc Frank
của Charlemagne là điều rất khó
khăn vì các tài liệu bằng văn bản là các di tích khan hiếm
và các tính toán chỉ là hoàn toàn dựa trên
ý muốn. Có nhiều điều đáng tiếc vì đây là
một kỷ nguyên trong lịch sử của trang bị và vũ khí khi mà các
kiểu vũ khí cổ xưa dần dần bị thoái hóa khi các thiết bị mới
xuất hiện. Các thay đổi xảy ra như thế nào là điều khó giải
thích, nhưng nó là có thể xảy ra vào cuối thời kỳ Merovingians và vào đầu thời
kỳ Carolingians khi người Frank phải chiến
đấu với nhữngngười Saracens,
người Lombard, người Aquitanians và Saxons – và
có một số ảnh hưởng thực tế. Một trong những thay
đổi có tầm quan trọng lớn nhất về quân sự là việc đưa vào biên
chế quân đội một số lượng rất lớn kỵ binh. Hoàng đế Charlemagne chắc chắn đã được
ghi nhận vì đã cho phát triển lực lượng kỵ binh nặng nổi
tiếng của người Frank. Các chiến
binh cưỡi ngựa, các milites,
người đã tạo thành những đội quân tinh nhuệ nhất thiết
phải được rút ra trong số các quý tộc Frank thượng lưu và các vệ sỹ của họ cũng như là
việc họ được trang bị thích hợp cho chiến tranh và họ phải
tự cung cấp cho bản thân mình, cho người của mình với ngựa và vũ
khí. Ngoài ra, họ phải tự cung cấp chẳng hạn như quần áo và lương
thực cho ít nhất ba tháng và các thiết bị khác nhau như lều, dụng cụ nấu ăn,
cuốc xẻng, cọc sắt nhọn và những thứ khác cần thiết cho một chiến dịch
quân sự. Việc sử dụng ngày càng tăng lực lượng kỵ binh có xu hướng
loại trừ những người tự do nhưng nghèo có thể tham
gia chiến đấu với đầy đủ các trang bị vũ
khí vì tại thời của Charlemagne chúng
là khá tốn kém. Ước tính cho thấy một con ngựa chiến tốt có giá
trị mười hai con bò, một thanh kiếm chất lượng hàng đầu và bao da tương
đương bảy con bò, một chiếc áo giáp tương
đương mười con bò, một bộ giáo và khiên tương
đương hai con bò và một chiếc mũ sắt tốt có thẩm mỹ tương
đương giữa bốn đến sáu con bò.
-- Charlemagne đặc
biệt tổ chức tốt về mặt hậu cần quân sự. Các kế hoạch tiến
quân được lập một cách cẩn thận trước khi được tiến hành, và nguồn
cung cấp thường được trưng dụng một mùa trước khi bắt đầu
chiến dịch. Charlemagne cho duy
trì các kho cung cấp thức ăn, nước, cỏ, và vũ khí
trong các cuộc chiến tranh với người Saxon của mình trong các đơn vị đồn trú tăng cường tại Herstelle, Eresburg, Buraburg, Fritzlar,
và Paderborn. Mileage, giữa các
kho chứa là một khoảng cách hợp lý từ một ngày
hoặc hai ngày nếu là di chuyển dễ dàng hoặc bị chậm lại bởi
sự quấy rối của đối phương. Các đoàn xe chở hành lý và đồ cung cấp
cho phép quân đội Frank di chuyển mà
không phải tìm kiếm thức ăn. Cướp bóc chính thức bị cấm – không phải vì bất kỳ lý do nhân
đạo nào mà là vì nó làm giảm tốc độ của quân đội. Trong thực tế, nói
chung cướp bóc xảy ra như một hình thức để trừng phạt đối
với vùng đất của phiến quân và kẻ thù. Đâycũng có thể là một
phần của một kế hoạch rộng lớn và được coi là để tàn phá, đè bẹp
tinh thần chiến đấu của đối phương. Charlemagne
sử dụng rộng rãi cácthông tin thường được thu thập bởi các điệp
viên và được xem xéttrước khi chuyến viễn chinh bắt
đầu. Các thông tin này bao gồm chi tiết về các vùng lãnh thổđối
tượngcủa cuộc chinh phục, dân số, địa lý, phương pháp của chiến tranh và
các kiểu mẫu của cuộc sống. Phương pháp có kỷ luật như
thế này là rất bất thường tại thời gian này và các
cuộc chiến thời hậu Trung cổ được tiến hành theo một cách lộn
xộn hơn rất nhiều.
-- Chiến thuật ưa thích của Charlemagne là chia lực lượng của mình
thành hai hoặc nhiều đội quân. Đây là chiến thuật được dự
định để gây nhầm lẫn cho đối phương và khi các lực lượng Frank tập hợp lại, họ sẽ triển
khai một cuộc tấn công tổng lực vào kẻ thù. Có những
lý luận mâu thuẫn với nhau về các phương pháp chiến đấu
được sử dụng bởi lực lượng kỵ binh Frank tại thời của Charlemagne.
Mặc dù các chiến binh ngồi trên yên ngựa với đầy đủ
bàn đạp, không nhất thiết rằng họ sẽ tận dụng được ưu thế này. Bàn
đạp cho phép một kỵ sĩ sử dụng giáo của mình như là một vũ khí đâm mạnh mẽ
tổ để anh ta giữ được đến gầnphần cuối ngọn giáo và kẹp
chắc nó vào người mình bằng cánh tay phải. Quân đội của Charlemagne đôi khi có thể sử dụng chiến
thuật sốc của kỵ binh nặng khi tấn công ở tầm gần với giáo và kiếm.
Tuy nhiên, các ghi chép cổ không xác nhận rằng chiến thuật này được
sử dụng một cách rộng rãi và có vẻ như chiến thuật này được
phát triển đầy đủ và làm việc rất thành công sau này. Hơn nữa,
nếu người ta có xác định được rằng quân đội của Charlemagne có bao nhiêu lính
kỵ binh thì người ta vẫn không rõ ràng rằng liệu họ thực sự
luôn luôn chiến đấu từ trên lưng ngựa hay họ chỉ sử
dụng loại động vật này đơn giản chỉ như là
mộtphương tiện vận chuyển nhanh chóng. Chắc chắn, các chiến
thuật trên chiến trường có thể trở nên tinh tế với một hàng rào
cọc nhọn trước các cung thủ, tấn công bằng bộ binh hoặc
kết hợp với kỵ binh tấn công theo sau cuộc tấn
công của bộ binh. Thời gian của Charlemagne
là một giai đoạn chuyển tiếp, trong đó các kỹ thuật của kỵ
binh quân đội đang được thử nghiệm. Một sự tiến hóa là việc sử dụng áo
giáp. Người Frank thường
không mặc giáp do họ khinh bỉ chúng từ thời Clovis và chỉ dựa vào một lá
chắn để tự bào vệ, các binh sỹ thời Carolingian của Charlemagne
đã quen với việc sử dụngáo giáp rộng rãi. Thời của Charlemagne không
chỉ những người lính giàu nhất trong
số họ mới được mang những áo giáp bảo vệ cơ thể.
Các áo byrnie hoặc brunia là những áo chẽn bằng
da hoặc là một chiếc áo bằng da dài, che
được nhiều phần kínvới nhiều phần nhỏ bằng kim loại
hoặc sừng dày khâu trên đó. Chiếc áo giáp thường dài
tới đùi và có một chỗ mở ở phía trước để cưỡi ngựa
được thuận tiện. Có nhiều loại hình
mũ sắt bảo vệ, đáng chú ý là một loại mũ hình nón
làm bằng sắt cứng đôi khi được gắn với bộ phận bảo vệ gò má và
có thể được trang trí công phu. Để bảo vệ chân, người ta dùng
các dây da, giày da lớn hoặc bambergues
– ( xà cạp) bằng sắt. Binh sĩ mang những tấm lá
chắn truyền thống bằng gỗ hình bầu dục hoặc hình tròn với
một hộp kim loại ở trung tâm như là một vũ khí bảo vệ bổ sung.
-- Nếu hệ thống hậu
cần, binh giáp và lực lượng kỵ binh có những bước phát
triển hơn lên, thì các loại vũ khí tấn công ở thời của Charlemagne lại hoàn toàn
giống như những gì được sử dụng bởi người Frank ở thời kỳ đầu, tuy nhiên cũng có một số cải
tiến. Các mũi giáo đã thường có trang bị một thanh
ngang để ngăn chặn việc đâm quá sâu vào trong cơ thể của
đối phương; sự hiện diện của thanh ngang (crosspiece) này áp dụng chủ
yếu cho các vũ khí dùng từ lưng ngựa. Nếu không có thanh
ngang, với một lực đâm đáng kể của các cú đánh, người kỵ sỹ
ngồi trên lưng ngựa sẽ không rút lại hoặc lấy được vũ khí
ra khỏi cơ thể của đối phương. Việc sử dụng
thanh trường kiếm đã rất phát triển và không chỉ
là dành riêng cho các chỉ huy như ởtrong giai đoạn đầu
của người Frank. Các chiến binh Carolingian có một thanh kiếm
với phần mũi được làm tròn như lưỡi dao được thiết kế để
cắt hơn là để đâm. Sự phổ biến của những thanh trường kiếm
có xu hướng để xác nhận việc sử dụng kỵ binh. Trên lưng ngựa, kỵ sĩ
được hỗ trợ bởi con ngựa của mình cho phép anh ta sử dụng các
loại vũ khí với hiệu ứng tuyệt vời mà nó thường có thể là
quá cồng kềnh khi đi bộ. Các loại scramasax (dao một lưỡi) đời đầu của người Frank vẫn còn được sử dụng;
lợi thế là nó có duy nhất một cạnh và lưỡi đao
rất dày, nặng và ngắn, nó cũng có thể được sử dụng
như một cái dùi cui. Các vũ khí khác còn được sử dụng
như búa trận truyền thốngcủa người Frank. Việc sử dụng cung tên –
bị loại bỏ bởi các chiến binh người rợ – được hồi sinh trong thời của Charlemagne. Nhiều binh lính có một cây
cung, các mũi tên và bao tên như một đồ phụ tùng
tiêu chuẩn, nhưng họ không phải là một lực lượng cung thủ chuyên nghiệp.
Nhiều loại dạng lao – javelin
và angon – được sử dụng
làm vũ khí để phóng. Do đó, Những người lính của Charlemagne đã có kỹ
năng về vũ khí về toàn diện, có khả năng chiến đấu cả ở
khoảng cách xa và ở gần. Từ những trang thiết bị như thế này, chúng
ta có thể thấy rằng các kỵ si Frank chính là
giai đoạn phát triển đầu tiên của các hiệp sĩ bọc
thép trong thế kỷ sau đó.
-- Charlemagne – như là một hoàng đế La Mã – có vệ sĩ riêng của mình. Các binh sĩ
được lựa chọn từ quý tộc trẻ tuổi mạnh mẽ nhất của ông ta – và được phân biệt với các
chiến binh khác. Họ có đặc quyền và phần nào được coi là lực
lượng vệ binh Hoàng gia. Họ được cung cấp các đồ binh giáp gần giống với
lính vệ binh Thời La Mã. Các binh sĩ ưu tú này mặc
một chiếc áo giáp, khiên tròn và mang một
thanh trường kiếm, nhưng thay vì đội một
chiếc mũ sắt hình cầu của La Mã với các
giáp bảo vệ cổ và má, họ lại đội một chiếc mũ kim loại hình tam
giác.
![]() |
Tranh vẽ cảnh kỵ binh người Frank luyện tập chiến trận, đích thân các con trai của Charlemagne ( Lui của nước Đức và Charles Hói của nước Pháp) giám sát các cuộc tập trận |
![]() |
Kỵ binh của vua Henry (một nhánh của triều Carolingian ở Đức ) đánh bại kỵ binh của người Magyar tại Riade năm 933 |
![]() |
Tranh vẽ một lính kỵ binh hạng nặng người Frank dùng giáo để khống chế một lính kỵ binh người Lombard để cho một người lính xứ Gascon cướp ngựa. |
-- Triều đình Caroligian là một triều đình quản lý một lãnh thổ rộng lớn và quân
đội của nó cũng vậy. Một chiến dịch không thành công, lấy ví dụ: chiến dịch tấn
công vào Saragoza năm 778, Phạm vi của các cuộc tấn công
thường giao động, ví dụ như trong năm
846 là khoảng 11 nghìn người với 500 ngựa chiến và 73 chiến thuyền tấn công
Ostia và Rome – đây có lẽ là quân
chính quy của triều đình Aghlabid chứ
không còn là một nhóm phiêu lưu nữa. Trong rất nhiều mặt các chiến cụ của người
Saracen lại tốt hơn của người Carolingian. Những chiến cụ để vây thành
của họ cũng hiện đại như của người Hôi giáo ở phía Đông. Vào giữa thế kỷ thứ 9 họ đã biết dùng Lửa Hy Lạp
(một loại vũ khí hải quân của người
Byzantine) ở trên biển và sử sụng nó
một cách rộng rãi vào thế kỷ thứ 10.
Các cây cung của họ được phát triển từ loại cung composite La Mã – Xiry. Chiến thuật tấn công của người Saracen thì rất phức tạp và đầy yếm trá
với thói quen sử dụng lực lượng dự bị và thậm trí là lực lượng dự bị bí mật ở
những địa điểm tấn công được lên kế hoạch từ trước. Một sử gia vô danh viết
quyển sách lịch sử “Salerno Chronicle” mô tả họ như là “những
người Ả Rập mánh khóe nhất và có bản chất xảo quyệt và thường kìm kiếm quỷ dữ
hơn là những thứ khác …”
-- Bất chấp những thất bại trong
việc bảo trợ của triều Carolingian cho
người Ý, người Lombard và người Frank. Người Kitô giáo được hưởng lợi từ
hàng loạt những kỹ thuật tiên tiến và sự bùng nổ vể kinh tế. Phần lớn là đơn
độc với một vài giúp đỡ không thường xuyên từ người Byzantine họ cố gắng đánh tan đợt tấn công đầu tiên của người Hồi
giáo. Nhưng vài năm sau họ lại trở lại với vẻ hung dữ hơn. Lần này người Hồi
giáo đã thiết lập được các căn cứ quân sự ở châu Âu. Một số trong những căn cứ
nguy hiểm nhất là ngọn núi ở cạnh con sông Garigliano
River ở Ytalia và Fraxinctum ở
Provence. Căn cứ đầu bị phá hủy vào năm
915 nhưng chiếc thứ hai tồn tại cho đến năm 972 phần lớn Apulia
bị chiếm trong nửa cuối thế kỷ thứ 9 nhưng
các đảo Sicily và Sardinia vẫn nằm trong vòng kiểm soát
của người Hồi giáo cho đến thế kỷ 11.
-- Thành phố Naple của Italia,
thành phố trên danh nghĩa thuộc về Đế quốc Byzantine
nhưng thực chất lại là một thành phố độc lập, đã duy trì một liên minh với
người Hồi giáo trong suốt thế kỷ thứ 9
và thế kỷ thứ 10, cũng liên minh với
người Hồi giáo nhưng ở mức độ lỏng lẻo hơn là thành phố Salerno. Người Saracen,
những người chiếm quyền kiểm soát ở Fraxinetum
thuộc Provence đầu tiên là được mời
tới bởi một phe trong các cuộc nội chiến và thậm chí là một số lượng rất lớn
các nhà cầm quyền người địa phương ở Italia và miền nam nước Pháp đã tuyển lính
đánh thuê người Hồi giáo từ Libia, Crete,
Sicily và Spain. Rất nhiều người
trong số họ đã định cư ở lại…Cố gắng chính của người Saracen định thuộc địa hóa Italia bằng vũ lực đã bị đánh bại khi
căn cứ của họ ở Garigliano bị triệt
phá. Bất chấp những …bởi nhiều nguyên nhân, nước Ý có một nền kinh tế vững
chắc, nông nghiệp và thương mại phát triển nhanh chóng trong thế kỷ thứ 9 và thế kỷ thứ 10
-- Mối đe dọa thứ ba mà triều đình
Byzantine phải đối mặt tại thế kỷ thứ 10 là người Magyar. Người Magyar là những tộc người
Finno – Ugrian và người Thổ, bị đuổi khỏi vùng đất của họ
tới miền Nam nước Nga và dường như họ đã bị mất toàn bộ gia đình ( phụ nữ, trẻ
con…). Chiếm đóng và định cư tại Hungary vào cuối thế kỷ thứ 9, mặc dù là dân du cư nhưng về mặt văn hóa họ lại không
phải là những kẻ man rợ, một vài trong số họ là người Kitô giáo, một số khác
lại theo Do thái giáo … và kỹ nghệ chế tạo vũ khí của họ là tuyệt vời. Người Magyar bất chấp những điều không may và
phải sống du canh du cư, nhưng họ vẫn giữ được truyền thống buôn bán trao đổi
với Đế chế Byzantine và các tỉnh ở
phía Đông theo đạo Hồi.
-- Mỗi một trong bộ tộc người Magyar được chỉ huy bởi một Hadnagy hay còn được gọi là một công
tước, hoàng thân, người trở thành thành viên của hội đồng điều hành Arpad. Quyết định trọng đại như hòa bình
hay chiến tranh được quyết định bởi thành viên của hội đồng, tương tự như hội
đồng dị giáo của dân Scandinavơ ở thời đầu. Đối thủ của họ kính trọng họ vì họ
rất có kỷ luật trong chiến đấu như theo quyển Chronica Hungarorum, quân đội của người Magyar được chia thành bảy đạo binh có liên quan tới từng bộ tộc.
Các đạo binh này lại được chia ra đơn vị nhỏ hàng trăm rồi hàng chục. Chiến
tranh và cướp phá… những đám đông dân cư như người Slav bị khuất phục và người Magyar
xâm được đều cùng định cư như những nông dân…
-- Một trong những mục tiêu của
cướp phá dường như là để cướp phụ nữ, dường như theo truyền thuyết thì toàn bộ
gia đình của họ bị kẻ địch bắt giữ khi họ vượt qua miền Nam nước Nga… Trong các
doanh trại của mình người Magyar bố
trí phòng thủ bằng những chiếc xe tải. Trong chiến trận họ chiến đấu như những
những người du mục và sử dụng cung kỵ, tấn công bất ngờ, giả vờ rút lui. Họ
thường không tổ chức công phá thành trì mà chỉ bao vây. Họ cũng thường duy trì
liên lạc giữa các nhóm tấn công bằng tín hiệu khói. Một trong những đặc điểm
của người Magyar là họ không cố tình
chiếm đóng lãnh thổ, họ sự dụng đất và căn cứ của người Slav bị đánh bại để làm bàn đạp cho những cuộc tấn công xa hơn… Họ
nhìn thấy người Bavaria ở phía Tây
như là một mối đe dọa, đặc biệt là tỉnh mà người German vẫn đòi hỏi về lãnh thổ
như là một vùng tiền tiêu của triều Carolingian
cũ ở phía Tây của Hungary. Trong một cách giải thích khác, rất nhiều nhà cai
trị người Ý, Đức muốn có một liên minh ngắn hạn với người Magyar để phục vụ cho lợi ích của họ trong các cuộc nội chiến và
điều này đã đưa triều Carolingian đến
kết thúc.
-- Sự tàn bạo trong các cuộc
tập kích của người Magyar một
lần nữa mang lại nguy hiểm cho vùng Asiatic (nay là vùng Adriatic) lúc này đã bị bỏ quên trong một
thế kỷ so với các vùng vùng đất còn lại củaTây Âu. Năm 900, người Magyar gây sức ép vào các
vùng biên giới của Đức, sau đó tràn vào các xứ Saxony
và Bavaria. Từ năm 912 họ tiến lên một
lần nữa vào các xứ Swabia,
Thuringia, Lorraine và thậm chí cả xứ Burgundy ở Pháp, một vài người trong số
họ đã mạo hiểm tiến rất xa đến tận Nimes và Narbonne ở miền nam nước Pháp (giáp Tây Ban Nha). Nhưng nơi
thu hút họ đến nhiều nhất chính là Italia, một quốc gia mà các bá
tước liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh vô nghĩa
và đánh giết lẫn nhau một cách tàn bạo. Các Giáo
hoàng, người này nhanh chóng thay thế người kia và
họ thường là rất đồi trụy và cũng tham gia vào các
cuộc xung đột. Vì vậy người Magyar
đã gặp rất ít khó khăn khi vượt qua dãy Alps và từ năm 921đến 926 họ đã tàn phá miền bắc Italy
và Tuscany. Năm 937 người Magyar trở về Đức,và trong năm 954 họ trở nên thiếu
thận trọng khi đi ngựa đến sông Rhine, vượt
qua con sông này và đột kích vào các thành phố Metz, Cambrai, Rheims và Chalon. Mặc dù
lực lượng của họ đã bị suy giảm, họ vẫn tiến hành bao
vây thành phố Augsburg vào
năm 955. Vào thời
gian này Hoàng đế Đức Otto I Đại đế (936-973 người Saxony
nhưng được hưởng các thành quả của triều Carolingian
ở Đức) đã thiết lập vững chắc quyền lực của mình ở
Đức. Hoàng đế Otto đã có
thể tập hợp được một đội quân mạnh mẽ và giao chiến với những kẻ
xâm lược ở bên bờ sông Lech –
trận Lechfeld (Ngày 10/08/955)
kéo dài trong mười tiếng đồng hồ và cuối cùng Hoàng đế Otto đã chiến
thắng. Người Magyar bỏ
chạy một cách toán loạn và bị truy đuổi đến tận ngoại
vi thành phố Vienna và bị
vỡ ra thành từng toán nhỏ. Tại một cuộc chiến duy nhất mối nguy hiểm
đã bị xóa bỏ, và thế là không còn cảnh người Magyar cưỡi ngựa đi cướp phá ở
Đức. Trận chiến Lechfeid có giá
trị mãi mãi trong lịch sử không chỉ vì nó đảo ngược dòng tiến quân
của người du mục khi họ xâm nhập vào Tây Âu mà
còn vì nó là một trong những ví dụ sớm nhất nếu không phải là ví
dụ đầu tiên của những trận chiến toàn bằng kỵ
binh trong thời trung cổ ở Tây Âu.
-- Sự tàn phá man
rợ của người Magyar
chỉ có thể được so sánh với những tàn phá trước đó của
người Hun. Các cánh đồng đang
đợi thu hoạch và các trang trại bị đốt cháy; gia súc giết
mổ, các làng mạc, nhà thờ còn lại trong … và đàn
ông bị giết chết, trẻ em bị cắt cổ và phụ nữ bị hãm-hiếp và giết
chết. Chỉ các lâu đài và nơi có các vị trí phòng thủ
là thoát khỏi sự chú ý của họ bởi vì người Magyar không có máy công thành. Người Magyar không thực sự nhiều, có
lẽ tổng cộng không đến hơn 20.000 kỵ binh và sự thành công về
mặt quân sự chỉ có thể được giải thích là sự thiếu vắng một
sức mạnh tập trung và sự yếu kém, sự chia rẽ và sự chuẩn bị
không tốt của các đối thủ của họ. Thật vậy, ngay sau khi họ phải
đối mặt với một lực lượng được tổ chức tốt của Hoàng đế Otto, họ đã bị đánh bại chỉ trong
một trận chiến. Giống như người Hun, người Magyar là những kỵ sỹ có trình độ
điều khiển ngựa tuyệt vời và có khả năng di
chuyển linh hoạt để cơ động trên chiến trường. Vũ khí
chính của họ là cung ngắn và rất uy lực kiểu Thổ ( người Magyar là những tay cung kỵ tuyệt vời có
thể vừa phi ngựa vừa bắn tên – cung
kỵ châu Âu không làm được như vậy, họ phải dừng ngựa mới bắn được tên
), lao, búa trận đầu rìu và các thanh kiếm
cong kiểu phương Đông. Họ không mặc áo giáp nhưng mặc áo
chẽn và đội mũ nỉ, mũ trụ được gia cố bảo
vệ bằng các sọc kim loại. Kho vũ khí của họ cũng bao
gồm nhiều loại vũ khí và các trang thiết bị chiến
tranh khác thu được từ các kẻ thù bị đánh bại của
họ.Trong năm 970 thủ
lĩnh Geza của người Magyar và 5.000 chiến binh của
mình đã chấp nhận rửa tội và từ những kẻ cướp du
mục họ đã trở thành những người định cư và thành
lập lãnh địa của mình trong lưu vực sông Danube. Wajk con trai của Geza đã trở thành vua Saint Stephen (997-1038) người đã thành lập ra vương quốc
Hungary trong năm 1001.
Sau đó người Magyar
ngừng các cuộc tấn công cướp phá và bắt đầu thích ứng với một Cộng
đồng châu Âu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét