Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.

Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Nỏ cầm tay
Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Nỏ máy Ballista của người Hy Lạp cổ đại.
- Nỏ là một loại vũ khí cổ dùng để bắn tên. Loại 

đơn giản là một cánh cung nằm ngang trên một cái 

báng có rãnh. Cái báng có thể làm bằng gỗ hay kim 

loại. Có một cơ chế máy móc đơn giản để khi nạp 

mũi nỏ (bolt) vào thì nó sẽ đứng yên tại vị trí ấy 

mà không cần giữ tay. Nỏ sẽ chỉ được bắn ra chừng 

nào bóp cò; cò thường ở gần tay cầm, dưới báng. 

Cơ cấu cò (lẫy nỏ) chính là tiền thân của cò các 

loại súng sau này.
Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Cò nỏ (hay còn gọi là Lẫy nỏ).

- Nỏ phát triển nhất vào thời Trung Cổ. Cùng 

với cung, nỏ được sử dụng rộng rãi trong săn bắn 

và cả chiến trận. Trong cuộc chiến tranh 100 năm 

giữa Anh và Pháp, những trận đánh nổi tiếng như 

Crécy, Poitiers, Agincourt đều được quyết định bởi 

các xạ thủ. Nỏ có sức đâm xuyên lớn và chính xác 

nhưng lắp tên chậm, khó bảo quản và chế tạo cũng 

tốn kém hơn. Một số loại nỏ cầm tay thời Phục 

Hưng có tầm bắn xa đến 200m (tầm bắn tối đa của 

cung chỉ là 90m với cách bắn thẳng). Trong khi 

cung thường bắn cầu vồng thì nỏ lại hay được bắn 

thẳng. Mũi tên của nỏ thường bịt sắt và không có 

ngạnh.


Phân Loại Nỏ:
* Nỏ có 2 loại chính là nỏ cơ giới (nỏ máy) và nỏ 
cá nhân (nỏ cầm tay). Hai loại này khác nhau rất rõ 
về công dụng cũng như tầm bắn. Trong khi nỏ cơ 
giới bắn rất xa và dùng để công thành là chủ yếu 
thì tầm bắn của nỏ cầm tay khiêm tốn hơn và 
thường để bắn dã chiến.


- Nỏ Cầm Tay: 
Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Nỏ liên hoàn cầm tay của Trung Quốc do
Gia Cát Lượng chế tạo

- Nỏ cầm tay xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc vào 

thời Chiến Quốc (hay thậm chí là sớm hơn). Nó là 

vũ khí chiến đấu chủ yếu của bộ binh Trung Quốc 

từ tận thời Chiến Quốc đến tận khi người châu Âu 

bắt đầu xâm lược Trung Quốc với tầm bắn được 

cải tiến liên tục. Nhiều học giả Trung Quốc như 

Mặc Địch, Đỗ Hựu đã ghi chép về nó.


- Những chiếc nỏ đầu tiên được mô tả bởi Mặc 

Địch còn khá yếu. Nhị bộ nhất mộc nỗ, tất xạ ngũ 

thập bộ dĩ thượng. Cứ hai bộ bố trí một nỏ gỗ, khi 

địchđến khoảng trên 50 bước(66 m) thì phải 

bắn. Tuy nhiên đến thời Đường những cây nỏ đã có 

tầm bắn tương đối xa như trong Thông Điển ghi 

lại. Kì nỗ thủ khu tặc nhất bách ngũ thập bộ tức 

phát tiễn, cung thủ khu tặc lục thập bộ phát 

tiễn. Lính bắn nỏ cách địch 150 bước (225 m) thì 

bắn nỏ, cung thủ cách địch 60 bước (90m) bước thì 

bắn cung. Về cơ bản, Đường nỏ là loại nỏ được 

người Trung Quốc sử dụng trong suốt hơn 1200 

năm tiếp đó từ thời Đường đến cuối thế kỉ 19. 

Ngoài Trung Quốc thì các nước phong kiến Nho 

học như Việt Nam và Cao Li cũng dần dần tiếp thu 

kĩ thuật chế tạo và sử dụng nỏ trong chiến tranh, 

riêng ở Nhật Bản nỏ cầm tay không được sử dụng 

vì từ thế kỉ 15 trở đi, Nhật là một trong những 

nước sớm nhất cải cách quân đội sử dụng đa số các 

xạ thủ bộ binh là lính bắn súng trong khi các nước 

trong khu vực tiếp tục sử dụng cung nỏ.

- Nỏ Máy: 
Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Chiếc nỏ máy Ballista khổng lồ của người Hy Lạp cổ đại.
- Đây là nỏ cỡ lớn, thường để công thành. Nó 
thường có giá đỡ và bắn theo kiểu cầu vồng. Người 
La Mã và người Trung Quốc cổ (thời Đường-
Tống) là những dân tộc chế tạo rất thành công thứ 
nỏ này. Ở La Mã, nó được biết với tên là ballista, 
trong đó có ballista thường, carroballista (nỏ 
ngựa). Đặc biệt, thời Trajan người ta chế ra 
một cây nỏ rất mạnh có thể bắn sát thương tới hơn 
750m

1. Bắn nỏ: Đặt nỏ vào vị trí kéo căng bằng 
cách móc dây tời vào dây nỏ rồi quay tời cho 
đến vị trí hãm và nhả dây tời ra.

2. Đặt mũi tên vào rãnh dọc trên thân nỏ rồi 
ngắm bắn bằng cách áp má vào đuôi của thân nỏ.

3. Ấn vào đuôi của lẫy nỏ để phóng tên đi.


- Vai trò của cung và nỏ chỉ thực sự chấm dứt khi 

cơ cấu điểm hoả của súng kíp được phát minh năm 

1620 ở Pháp. Tuy vậy ở Châu Á nó vẫn được sử 

dụng cho đến tận thế kỷ 19. Trong cuộc Chiến 

Tranh ĐôngDương, nhiều lính Pháp đã bị hạ bởi 

nỏ của những người dân tộc thiểu số ở Tây 

NguyênTrong chiến tranh chống Mỹ, do thiếu 

súng đạn, lực lượng du kích Quân Đội Nhân Dân 

Việt Nam còn sử dụng nỏ để bắn trực thăng, tài 

liệu Hoa Kỳ đã ghi nhận những trường hợp trực 

thăng của họ bị bắn rơi bởi cung nỏ của du kích 

Việt Nam.
Giới Thiệu Về Sự Ra Đời Của Cây Nỏ.
Nỏ máy Oxybelles dùng để bắn đá
- Tuy nhiên không phải tất cả các loại nỏ đều bắn 

tên. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, Châu Âu đã từng 

xuất hiện dạng nỏ bắn đá (đạn bi) dùng để luyện 

tập thể thao và săn những con thú nhỏ.


- Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, 
Chị, Em đã xem blog. 

Blogger Nguyễn Minh Đức
Blogger Nguyen Minh Duc

Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum

- Từ ngàn xưa người dân tộc thiểu số luôn sống tập trung và có thói quen săn bắt, hái lượm, người Jẻ-Triêng ở Kon Tum cũng vậy, ngoài làm nương rẫy ra họ xem việc đi săn thú rừng là một hoạt động thiết yếu, dụng cụ bất ly thân chính là dao và nỏ, ở đây chỉ nói đến bộ nỏ săn bắn. Quan niệm cho rằng người đàn ông nào trong mỗi buôn làng không biết sử dụng nỏ thì coi như chưa trưởng thành, những người thợ săn tài ba nhất rất được kính trọng, tuy nhiên việc sử dụng nó rất khó chưa nói đến việc dùng để đi săn và làm ra được một chiếc nỏ nhỏ gọn nhưng có thể săn được thú lớn không phải đơn giản.

- Trước tiên là công đoạn lên rừng tìm gỗ để chế tạo cánh nỏ, việc này đòi hỏi phải thật sự kiên nhẫn và tinh tường. Người đàn ông lên rừng chọn cho mình một cây gỗ thật già và chỉ sử dụng lõi, người Jẻ-Triêng thường làm cánh nỏ bằng gỗ trắc (người Xê Đăng và các dân tộc khác làm bằng một loại cây gọi là cây K’Sam, cũng màu đỏ như gỗ trắc nhưng loại gỗ này dẻo hơn có độ đàn hồi rất tốt), sau đó họ lấy dao chuyên dụng đẽo thành một khúc cây đều nhau dài khoảng 50cm - 90cm tùy theo độ lớn của từng chiếc nỏ cũng như sức khỏe của từng người. Dao làm nỏ thường có một bộ gồm 3 cái một cái lớn lưỡi dài chừng 50cm, cán dài 30cm dùng để đẽo cây, dao nhỏ hơn có cán bằng mây dài khoảng 40cm dùng trong việc làm ống đựng tên và dao nhỏ nhất lưỡi chỉ bằng ngón tay trỏ nhưng cán lại dài hơn 40cm làm bằng cây mây dùng để vót mũi tên và dây nỏ, loại dao này họ rèn bằng mảnh bom nhặt trên rừng nên thép rất cứng và được bảo quản cẩn thận trong vỏ gỗ.
Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum

Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum
- Làm ra được một cánh nỏ phải trải qua sự lựa chọn rất tỉ mỉ, thanh gỗ phải là đoạn giữa thân cây được gọt hai đầu đều nhau, sau đó lấy tâm điểm của cánh nỏ làm điểm chuẩn vót nhỏ dần ra hai bên, đoạn cuối gọt hai khấc nhỏ bằng đốt ngón tay dùng để móc dây nỏ, lúc này họ lấy một sợi dây cột ở giữa treo lên như chiếc cân dây rồi từ từ chỉnh cho đều nhau đến khi hai bên phải cân xứng nằm song song với mặt đất. Một việc nữa là tạo độ cong cho cánh nỏ, việc này rất quan trọng vì nếu cánh nỏ không đều mũi tên sẽ đi không chính xác, người ta tạo ra một cái khuôn bằng gỗ cũng chỉnh độ đều phải kỹ lưỡng như làm cánh nỏ, khuôn có độ dài từ 50cm đến 1m, chiều rộng tính từ đoạn giữa là 20cm, một bên được gọt cong hình cung rất đều, có đánh dấu ở tâm, tùy theo sở thích của mỗi người kiểu dáng uốn lượn cũng khác nhau, một bên để thẳng và có đẽo 4 khấc ở hai đầu. Tiếp theo họ ghép cánh nỏ đã được gọt phẳng vào khuôn sao cho tâm cánh nỏ tương ứng với tâm của khuôn, hai bên cánh họ lấy 4 sợi dây rừng buộc ép vào khuôn mẫu cho đến khi cánh nỏ được ôm sát vào khung, mỗi ngày họ níu 4 sợi dây rừng vào một ít việc này phải mất hàng tháng trời cánh nỏ mới có độ cong theo ý muốn.

- Công đoạn tiếp theo họ bắt tay vào làm thân nỏ (là cái báng có rãnh) có chiều dài trung bình 30cm - 40 cm, mặt trên bè ra, phía dưới thu nhỏ lại và được chạm hoa văn hình chữ V, thân nỏ không cầu kỳ phải lựa chọn gỗ, thường thì họ dùng gỗ mềm dễ cho việc khoét lỗ để bỏ lẫy, nhưng đường rãnh đặt mũi tên bắt buộc phải có độ sâu và thẳng nhất định, phía cuối đường rãnh họ mài một thanh kim loại nhỏ bằng cái kim khâu nhưng ngắn khoảng 0,5cm gắn cố định để có thể giữ cho mũi tên không bị rơi ra, một số người chỉ bỏ sáp ong không dùng thanh kim loại, ở đoạn đầu họ khoét một lỗ làm sao cho bỏ lọt khít tâm của cánh nỏ, phía cuối gọt bè ra tạo điểm tựa cho tay cầm.
Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum

Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum
- Việc làm lẫy nỏ là yếu tố rất quan trọng không kém, nó không những phải tinh tế, cẩn thận mà còn thể hiện được bàn tay khéo léo của người làm nỏ, họ dùng dao đục một lỗ thông với 3 mặt của thân nỏ, tạo thành khe có một bên rộng hơn bên kia, tác dụng để nhét lẫy nỏ vào, sau đó lấy sáp ong trộn với tro gắn chặn phía ngoài giữ không cho lẫy bị rớt. Lẫy nỏ là một vật có hình chữ H dài 3cm, độ dày 0,3cm, đa số được làm bằng sừng hoặc xương động vật, một số thì làm bằng nhôm, có nơi làm bằng sắt nhưng lẫy nỏ của họ hình chữ J trông như cò súng, đặc biệt có những cây nỏ cổ của người dân tộc Jẻ- Triêng lẫy nỏ được làm bằng ngà voi. Công đoạn làm lẫy cũng cần phải tỉ mỉ vì nếu không đủ kích thước hay độ láng, dây nỏ sẽ bị hư hỏng nhanh và không giữ được đúng vị trí đã kéo căng, lẫy bỏ vào nỏ có một mặt sát đều với thân nỏ không được nhô lên quá và cũng không được thấp quá, một mặt nằm ngang phía dưới để có thể bóp cò khi bắn tên. Người có tay nghề cao thì dây nỏ bám rất chắc vào lẫy, có thể kéo dây gắn vào lẫy và tung lên không trung rồi bắt lại, dây nỏ vẫn nguyên vẹn trên lẫy nhưng chỉ cần lấy hai ngón tay kéo nhẹ cò, dây sẽ bật ra đưa mũi tên đi.

- Cuối cùng là việc làm dây, chất liệu là một loại cây gọi là Samlũ (loại cây này cùng họ với mây nhưng dẻo hơn, thân cây có rất nhiều gai). Họ ngâm nước để tạo độ dẻo sau đó vót cho thật nhẵn, hai đầu chẻ ra làm như hình lưỡi rắn, sau đó cắt hai đọt cây chuối gắn ngập vào hai đầu này, để chừng một giờ đồng hồ cho nước đọt chuối ngấm vào, lúc này hai đầu rất dẻo và vặn như vặn lạt gói bánh chưng, làm tơi ra lúc này bện dây vào nhau như bện tóc đuôi sam, cột một đầu vào đuôi cánh nỏ lấy độ chuẩn, sau đó bện lại thành vòng tạo thành một móc tròn, đầu dây bên kia cũng làm như vậy nhưng bện thu vào cách chiều dài của cánh nỏ khoảng 1cm để khi tra dây vào dây có độ căng tuyệt đối. Công việc chế tác một chiếc nỏ để săn bắn của người Jẻ-Triêng đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực nhưng sử dụng và gìn giữ nó rất quan trọng không kém, một cây nỏ tốt khả năng bắn xa đến 500m. Để bảo quản, người Jẻ-Triêng có thói quen sau khi bắn xong họ thường tháo dây ra để cánh nỏ luôn có một lực nhất định cũng là tạo cho dây nỏ không bị giãn, nơi cất giữ duy nhất là trên giàn bếp cũng có tác dụng tránh được mối mọt.
Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum

Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum
- Để đi săn dài ngày, đồng bào Jẻ-Triêng chuẩn bị rất nhiều mũi tên, vì vậy việc làm hộp đựng tên là rất cần thiết nhưng phải đảm bảo được độ kín giữ cho mũi tên luôn luôn thẳng và không bị mất. Hộp đựng tên thường làm bằng lồ ô già, người ta chọn một đoạn thân cây thật tròn và thẳng có 2 đầu mắt bịt kín, đường kính ống khoảng 10cm, chiều dài ống khoảng 50cm, họ cắt thành 2 khúc, khúc ngắn hơn dùng làm nắp đậy. Sau đó dùng dao gọt một đầu cho nhỏ tạo miệng ống, sau đó lấy một vật tự chế bằng kim loại có đầu nhọn bẻ vuông góc với thân cho vào phía trong ống làm nắp, gọt xung quanh làm sao khi úp vào nhau nắp và ống thật khớp. Công việc nữa rất quan trọng đó là phải gọt hết lớp vỏ lụa ngoài của thân cây lồ ô, việc này có tác dụng khi bỏ trên gác bếp, khói sẽ nhanh ngấm sâu vào thân, khi đã đạt được độ khô nhất định họ lấy dây mây rọ lại ống nắp theo kiểu tết sam, giữ cho ống không bị nứt.

- Đó là các bước để có một ống tên theo ý muốn, tuy nhiên ở đồng bào người Jẻ-Triêng có một điểm đặc biệt quan trọng và đáng chú ý đó là ống đựng tên thường có bọc một đoạn đuôi của một con vật được săn về, thường là đuôi Sơn dương hoặc nai, hoẵng. Con vật được cắt bỏ đoạn đuôi, lột lấy da và nhét phần ống tên vào, đoạn phía gần miệng ống được dùi những lỗ nhỏ xung quanh rồi lấy những đoạn tre dài 1cm có đầu nhọn chêm gắn liền da với ống lại với nhau như ta chêm mặt trống, phía cuối ống tên, dùng dây mây quấn túm lại giữ không cho da bị nhăn, sau đó đem đi hun khói, một thời gian sau da và ống gần như ôm khít vào nhau trông rất thẩm mỹ và chắc chắn. Ngoài ống họ có gắn thêm một ống lồ ô nhỏ bằng ngón tay, chiều dài bằng đoạn ống dưới, tác dụng bỏ mũi tên dự phòng trước khi bắn. Thường thì những ống tên có bọc da kiểu này họ chuyên để đựng những mũi tên tẩm thuốc độc để săn thú lớn.
Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ- Triêng ở Kon Tum

- Trong hoạt động dùng nỏ săn bắn của người Jẻ-Triêng, rất nhiều điều chúng ta luôn thắc mắc đó là tại sao chỉ cần một đoạn cây mây (samlũ) có thể trở thành một sợi dây nỏ vô cùng dẻo dai đến thế và tại sao họ không dùng những dây khác như bện dây dừa hay ruột mèo như những nơi khác thường làm,... Nói tóm lại là cũng từ kinh nghiệm, từ những dụng cụ thường có sẵn trong tự nhiên nơi họ đặt chân đến, họ có thể thay thế dây bất cứ lúc nào cần. Một điều ngạc nhiên hơn cả đó là tại sao một vật nhỏ bé như vậy lại có thể giết được một con thú lớn cả trăm kilogam, điều này là nhờ vào những mũi tên, đầu mũi tên được tẩm một thứ thuốc gọi là thuốc độc nhưng con người có thể ăn thịt thú mà không bị ảnh hưởng đến sức khỏe.

- Trước tiên phải nói đến việc vót tên, mũi tên của người đi săn thường thẳng tắp, được lựa chọn từ những thân tre già nhất, vót thật nhẵn hình bầu dục, trên dưới thân phải tạo độ vát để có thể gắn khớp vào rãnh nỏ, mũi tên thường có độ dài bằng ½ cánh nỏ, đoạn cuối có gắn một đoạn lá cọ đã được xé đều khoảng 1cm xếp hình thoi tạo cho mũi tên không bị lệch hướng. Việc quan trọng nhất đó là đầu mũi tên, tùy thuộc vào từng chuyến đi săn, săn sóc, chuột có thể vót thông thường cho thật nhọn, đi săn thú lớn hơn một chút thì vót như kiểu đầu nhọn to dần để khi tên găm vào con vật bị vướng rất khó chạy, đặc biệt mũi tên sẽ không bị rơi ra. Để săn thú hung dữ hơn, bắt buộc phải có đầu tên tẩm thuốc độc, đầu mũi tên có thể bằng đá hoặc bằng sắt được mài nhọn hai bên có hai móc, ở giữa dài ra gắn vào thân mũi tên tre. Khi con vật trúng tên nhưng vẫn chạy được, thân và cánh mũi tên có thể rơi ra nhưng đầu mũi tên độc nằm sâu dưới lớp da, người thợ săn lần theo dấu vết đến khi con vật bị đầu tên thuốc độc làm tê liệt, vết thương bị phân hủy lúc đó con vật không còn sức để chạy, việc đi săn này thường phải mất rất nhiều thời gian của người Jẻ-Triêng. 

- Cuối cùng là chúng ta tự hỏi, vậy thuốc độc họ làm như thế nào và làm từ chất gì mà con người ăn thịt động vật trúng độc mà vẫn không có gì xảy ra?! Có những điều vô cùng bình thường và gần gũi quanh ta nhưng chỉ có những người thợ săn chuyên nghiệp của núi rừng mới nhận thấy được. Thuốc để tẩm mũi tên thường làm bằng một loại lá (gọi là Lanauobor) và rất nhiều thứ khác, nhưng người đồng bào Jẻ-Triêng lại có cách làm thuốc độc đơn giản hơn. Trong cuộc sống giữa con người với thiên nhiên, họ nhận thấy có những động vật tiết ra những chất độc rất nguy hiểm khi chúng cắn vào cơ thể người như rắn, rít, ong vò vẽ v.v.. và họ chợt nghĩ sao ta không thử lấy chất độc từ con người như nước bọt chẳng hạn. Ta thấy rằng, người Jẻ-Triêng họ làm thuốc độc tẩm vào mũi tên săn bắn của mình từ nước bọt con người. Cách tạo ra một lọ thuốc độc cho mũi tên là mỗi sáng thức dậy khi chưa giao tiếp với ai, họ nhổ một ít nước bọt vào lọ và cứ thế hàng tháng trời, mỗi buổi sáng một ít họ sẽ có một lọ nước rất độc mà không cần pha chế hay lấy từ bất cứ nơi nào về.

- Còn rất nhiều điều để chúng ta phải tìm tòi nghiên cứu trong cuộc sống cũng như trong văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Jẻ-Triêng. Có một điểm rất đặc biệt đối với những người thợ săn Jẻ-Triêng đó là mỗi lần bắt được một con thú bất kể nhỏ hay lớn, họ đều dùng máu và ít lông của con thú đó bôi lên cánh nỏ, nên có những cây nỏ cổ hiện nay vẫn còn một lớp trông như lớp nhựa trộn với lông thú bám chặt vào nỏ. Họ xem cây nỏ như một vị thần linh đi theo để bảo vệ và nuôi sống cả gia đình họ, nên khi săn được một con thú, được thưởng thức đầu tiên chính là chiếc nỏ, như thể hiện một sự tôn kính với bề trên của mình. Hàng năm, ngành văn hóa-thể thao Kon Tum thường tổ chức rất nhiều cuộc thi bắn nỏ được diễn ra trong toàn tỉnh, thường số điểm cao nhất vẫn nằm trong danh sách những chàng trai Jẻ-Triêng.


- Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, 
Chị, Em đã xem blog.
Blogger Nguyễn Minh Đức
Blogger Nguyen Minh Duc

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Oxybelles
Nỏ Oxybeles của Châu Âu thời Trung Cổ.



Oxybelles
Nỏ Oxybelles.



Oxybelles
Một dạng khác của nỏ Oxybelles.



Chuang Zi Nu
Nỏ công thành Chuang Zi Nu được người Trung Quốc Cổ Đại cải tiến lại từ nỏ Oxybelles.




The Gastraphetes c 400 BC
Nỏ The Gastrophetes c 400 BC, nỏ tự động cầm tay, phiên bản thu nhỏ của Oxybelles.


The Gastrophetes
Nỏ The Gastrophetes được người Hy Lạp
Cổ Đại sử dụng.


Nỏ Bronze Crossbow
Nỏ Bronze Crossbow một dạng cải tiến của nỏ The Gastrophetes được người Trung Quốc cổ đại sử dụng tìm thấy ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.


Nỏ Bronze Crossbow
Nỏ Bronze Crossbow cải tiến hơn.


Nỏ Bronze Crossbow
Mẫu nỏ Bronze Crossbow cải tiến.


Nỏ Ballista
Nỏ Ballista, Một dạng cải tiến lại từ nỏ Oxybelles. Đây là mẫu nỏ nguyên thủy được người Hy Lạp
cổ đại sử dụng.


Nỏ Ballista
Đây là mẫu nỏ Ballista được phục dựng lại năm 2013.


Nỏ Ballista
Lính Hy Lạp cổ đại tập luyện với nỏ Ballista đơn giãn.


Nỏ Ballista
Lính Hy Lạp cổ đại luyện tập với một dạng nỏ Bllista khác.


Nỏ Ballista
Binh lính Hy Lạp Cổ Đại luyện tập với
nhiều dạng nỏ Ballista.


Nỏ Polypolos
Nỏ Polypolos một dạng cải tiến sau này từ nỏ Ballista.


Nỏ Polypolos
Nỏ Polypolos được phục dựng lại năm 2011.


Lính Hy Lạp Cổ Đại luyện tập với nỏ - Gastophetes; Oxybelles; Ballista.
Lính Hy Lạp Cổ Đại luyện tập với nỏ - Gastophetes; Oxybelles; Ballista.


Nỏ Oxybelles dùng để bắn đá
Một dạng nỏ cải tiến của Oxybelles dùng để bắn đá công thành.


Máy bắn đá Cải tiến Oxybelles
Phục dụng và bắn thử nghiệm máy nỏ bắn đá cải tiến theo Nỏ Oxybelles năm 2011.


Máy bắn đá Ballista
Máy bắn đá cải tiến từ nỏ Ballista ở Hy Lạp cổ đại.


Máy bắn đá Ballista khổng lồ
Lính Hy Lạp cổ đại tập luyện với máy bắn đá Ballista khổng lồ.


Nỏ liên hoàn
Nỏ Liên Hoàn của Người Trung Quốc cổ đại, đây là tác phẩm của Gia Cát Lượng dầy công nghiên cứu.


Nỏ Liên Hoàn
Một dạng khác của nỏ Liên Hoàn.


Nỏ Liên Hoàn
Một dạng cải tiến khác của nỏ Liên Hoàn.

Nỏ Liên Châu của nước Âu Lạc.
Bắn trình diễn chiếc nỏ phục dựng theo nỏ Liên Châu của Vua An Dương Vương Nước Âu Lạc thời xa xưa.
- Sau đây Minh Đức xin giới thiệu đến quý độc giả hình ảnh các loại nỏ thô sơ cũng như hiện đại của Việt Nam và trên thế giới.
Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.

Hình Ảnh Về Những Cây Nỏ Của Việt Nam và Thế Giới.


- Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, Chị, Em đã xem blog.
Blogger Nguyễn Minh Đức
Blogger Nguyen Minh Duc