* Cận
Tiếu Cổ Vương:
- Cận Tiếu Cổ
Vương (324-375, trị vì 346-375) là vị quốc vương thứ 13 của Bách tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông cai trị trên đỉnh cao quyền lực của Bách Tế.
* Bối cảnh:
* Bối cảnh:
- Cận
Tiếu Tếu Vương là con trai thứ hai của quốc vương thứ 11 là Bỉ Lưu Vương và lên ngôi sau cái chết
của vị quốc vương thứ 12 là Khiết
Vương. Việc ông lên ngôi dường như đánh dấu sự thắng thế vĩnh viễn của các hậu
duệ vị quốc vương thứ 5 là Tiếu
Cổ Vương (được phản ánh trong tên của Cận Tiếu Cổ Vương) với các hậu duệ của vị
quốc vương thứ 8 là Cổ Nhĩ Vương kết
thúc việc kế vị xen kẽ giữa hai nhánh vương tộc.
* Tăng cường quyền lực hoàng gia:
- Sau khi lên ngôi, ông đã củng cổ quyền lực của hoàng gia tại Bách Tế. Ông khiến sức mạnh của tầng lớp quý tộc suy giảm và cho lập một hệ thống quan lại địa phương với người đứng đầu do triều đình bổ nhiệm. Ông kết hôn với một người vương hậu họ Chân (Jin), lập tiền lệ cho những người kế vị ông, ông cũng cho dời đô về Hansan, đông nam Seoul ngày nay.
* Mở mang lãnh thổ:
- Dưới
thời Cận Tiếu Cổ Vương, vương quốc đã đạt đến một phạm vi địa lý và quyền lực
chính trị lớn nhất. Các tiểu quốc bộ tộc còn lại của liên minh Mã Hàn bị thôn tính vào năm 369, hoàn thành
việc Bách Tế kiểm soát toàn bộ khu vực Jeolla ngày nay. Liên minh Già Da (Gaya) gồm nhiều tiểu quốc ở phía tây sông Nakdong (Lạc Đông) cũng trở thành vùng phiên
thuộc của Bách Tế.
Năm
369, Bách Tế bị Cao Câu Ly xâm lược, song đã bị phản công trong
trận thành Trí Nhưỡng (Chiyang). Năm 371, hơn 30.000 quân Bách Tế do thái tử Cần Cừu Thủ chỉ huy đã chiếm thành Bình Nhưỡng và
giết chết vua Cố Quốc Nguyên
Vương của Cao Câu Ly.
Vào
giai đoạn cuối của cuộc chinh phục, Bách Tế tạo thành vành đai tại Hoàng Hải, và kiểm soát phần lớn phía
tây bán đảo Triều Tiên, bao gồm
toàn bộ Gyeonggi (Kinh Kỳ), Chungcheong (Trung Thanh), cùng Jeolla (Toàn La) và nhiều phần
của Gangwon (Giang Nguyên) và Hwanghae
(Hoàng Hải).
* Quan hệ đối ngoại:
- Năm
366, Cận Tiếu Cổ Vương liên minh với Tân
La, vương quốc ở phía đông Bách Tế, duy trì một thế cân bằng quyền lực trong Tam Quốc Triều Tiên.
- Cận
Tiếu Cổ Vương cũng cho tiếp nhận văn hóa và tri thức Trung Hoa từ nhà Đông Tấn tại Trung Hoa. Theo cả sử sách Triều
Tiên và Trung Hoa, tiếp xúc mang tính ngoại giao đầu tiên giữa hai bên là vào
năm 372, khi Cận Tiếu Cổ Vương cử một đoàn sứ thần đến triều đình nhà Tấn.
Trong cùng năm, triều đình nhà Tấn đã cứ sứ thần sang sắc phong cho ông tước
hiệu "Trấn Đông tướng quân Lạc
Lãng quận thái thú".
- Dưới
thời trị vì của ông, Bách Tế xây dựng và kiểm soát mối quan hệ thương mại giữa
Trung Hoa, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản còn gọi là: "tam biên mậu
dịch". Theo truyền thống thương mại chú yếu do các hoàng đế Trung Hoa
thống trị, tuy nhiên, sau khi họ mất quyền kiểm soát Lạc Lãng quận; miền bắc
Trung Quốc nằm dưới quyền kiếm soát của người Ngũ
Hồ như Hung Nô, Tiên Ti và Khương,
tất cả đều thiếu kinh nghiệm đi biển. Bách Tế thiết lập các quận tại khu vực
Liêu Tây của Trung Quốc và tiến đến Kyushu (Cửu Châu) của Nhật Bản, nổi lên là một trung tâm
thương mại mới của Đông Á.
- Bách Tế
cũng truyền bá văn hóa của mình đến đồng minh Nụy
Quốc (Wa) vào thời kỳ Yamato ở Nhật Bản. Bằng chứng
của mối quan hệ hữu nghị giữa Bách Tế và Nhật Bản là thất chi đao do Cận Tiếu Cổ Vương tặng cho người đứng đầu Nụy Quốc. Cận Tiếu Cổ Vương
cũng sử các học giả Wang In (Vương
Nhân) và Ajikgi đến Nhật Bản
để mở rộng sự hiểu biết về văn hóa Bách Tế, Nho
giáo và Hán tự.
* Văn hóa:
- Cận
Tiếu Cổ Vương cũng khuyến khích phát triển văn hóa; sau khi Bách Tế chiếm được Đái Phương quận, nhiều học giả Trung
Hoa đã được mời và được vào triều đình của Cận Tiếu Cổ Vương. Với nền văn hóa
Trung Hoa tiến tiến đã tiếp nhận từ những người này cùng những nét văn hóa quan
trọng từ nhà Tấn qua con đường giao thương, người dân
Bách Tế đã được hưởng một chất lượng cuộc sống cao hơn.
- Trong
những năm ông trị vì, một sách sử Bách Tế có tên là Thư kí (Seogi) đã được biên soạn vởi học giả Cao Hưng (Go Heung). Mục đích chính của việc
này không chỉ là ghi chép lịch sử mà còn để biện minh cho ông và sự trì vì của
gia tộc ông cũng như phô trương sức mạnh tại Bách Tế. Tuy nhiên, tài liệu này
không còn tồn tại cho đến ngày nay.
- Năm 372, Nhà vua Geunchogo (Cận Tiếu Cổ Vương) của Baekje triều
cống sang Đông Tấn và người ta tin rằng, thanh kiếm 7 ngạnh đã được rèn ra và
dâng cho nhà vua để tán dương công đức.
Đây là thanh trường kiếm thép dài 74,9 cm với 6 cái ngạnh thò ra
giống như cành cây dọc theo lưỡi kiếm dài 65,5 cm. Thanh kiếm được làm ra phục
vụ mục đích nghi lễ chứ không phải cho chiến đấu.
- Năm 1870, một tu sĩ Thần Đạo có tên Masatomo Kan đã phát hiện ra
hai dòng chữ khắc trên thanh kiếm 7 ngạnh. Trong đó, một dòng viết: “Trưa ngày
thứ 16 của tháng thứ 11, năm Thái Hòa thứ tư, thanh kiếm được làm bằng thép
được tôi 100 lần. Dụng kiếm đẩy lùi 100 địch quân…”.
- Thanh kiếm 7 ngạnh có chứa nhiều thông điệp, nhưng gây tranh cãi
nhất là liên quan đến cụm từ “lãnh chúa phân phong”, được dùng để mô tả Vua Wa
có thể là một chư hầu của vị vua Baekje.
Thanh kiếm là một liên kết lịch sử quan trọng và cho thấy đã có
một mối quan hệ tồn tại giữa các nước Đông Á trong thời kỳ này.
- Thanh kiếm 7 ngạnh nguyên bản đang được đặt trong đền thờ
Isonokami, tỉnh Nara, Nhật Bản. Nó không được trưng bày cho công chúng thưởng lãm.
- Minh Đức xin cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, Chị, Em đã xem blog.
Thanh kiếm 7 ngạnh trong đền thờ Isonokami |
- Minh Đức xin cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, Chị, Em đã xem blog.
Blogger NGUYEN MINH DUC |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét