* Kiếm
Nhật:
Kiếm Nhật Katana |
- Kiếm Nhật (hay Katana ) là loại kiếm dài, hình hơi cong, một lưỡi, rất bén được
các võ sĩ Nhật trọng
dụng và luôn đeo trên thắt lưng - thường cặp với một thanh kiếm ngắn hơn, hoặc
cực ngắn gọi là Đoản Đao (Tanto).
Thanh kiếm ngắn Tanto |
- Bộ kiếm đôi gọi là Đại
- Tiểu; biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh
kiếm dài Katana dùng để chém trong tác chiến. Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối
phương hoặc để mổ bụng tự sát (một kỹ thuật tự sát của Samurai, mang
tên Seppuku).
- Kiếm Katana có chuôi dài đủ để
người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt. Theo truyền thống, kiếm được đeo với
lưỡi quay lên phía trên, (chiều cong hướng lên trên, ngược với cách đeo kiếm Tây Âu). Ngày
nay tuy không còn được sử dụng trong chiến tranh, kiếm Nhật vẫn được giới sưu
tầm yêu chuộng - loại kiếm cổ rất mắc tiền; và nghệ thuật tác chiến bằng kiếm
Nhật vẫn còn được lưu truyền trong một số thể thao võ thuật Nhật Bản, như môn Kendo (Kiếm đạo), Kenjutsu (Kiếm thuật), Battojutsu (Bạt đao thuật).
* Lịch sử của kiếm Nhật:
Theo định nghĩa của người Nhật
thì vũ khí mà chúng ta gọi là kiếm Nhật được gọi dưới cái tên katana tức là đao (theo chữ Hán) nhưng thường
được hiểu là trường kiếm. Ngoài katana, người Nhật cũng còn tachi,
nodachi cũng là một loại kiếm dài,
wakizashi là một loại đoản kiếm,
kaiken" và tanto là những loại kiếm ngắn giống như
dao găm hay chủy thủ. Có khi thanh tanto được người phụ nữ, người vợ của các
samurai Nhật Bản sử dụng để bảo toàn danh tiết.
Kiếm Nhật Tachi |
Kiếm Nhật Nodachi |
Kiếm Nhật Wakizashi |
- Người Nhật đã có một truyền
thống rèn kiếm lâu đời. Kiếm, ngọc và gương là ba [bảo vật truyền quốc], được
coi như biểu chương của hoàng gia (imperial regalia), thờ tại đền ở Ise
gần hoàng cung cũ ở cựu đô Nara cũng là những linh vật trong thần đạo (shinto).
Ngay từ thời đại Kofun và Nara
(300-794) đầu Công nguyên, nước Nhật đã sử dụng kiếm, hồi đó lưỡi kiếm thẳng và
dài chừng 80 cm theo mẫu mực của Trung Hoa và Triều Tiên. Đến thế kỷ 8, đầu thế kỷ 9 người Nhật bắt đầu đúc kiếm có hình
cong ở gần cán rồi dần dần cong hoàn toàn.
- Thời đại Heian sau đó (794-1185), nước Nhật bước vào một
thời kỳ văn hoá khá rực rỡ. Xã hội nhiều giai cấp trong đó giới võ sĩ
(Samurai), giới tăng nhân (warrior monks) trở thành những lực lượng quan
trọng được triều đình thuê mướn để bảo vệ lãnh thổ. Thanh kiếm đã không chỉ là
một võ khí mà đã trở thành một tác phẩm, vừa thanh tú vừa mỹ thuật.
- Người ta cũng bắt đầu khắc tên
và nơi chế tạo trên chuôi kiếm, hiệp sĩ cũng mang theo những thanh kiếm ngắn
hơn để thay đổi. Ngoài kiếm nhiều loại chiến cụ khác cũng phát triển điển hình
là cung tên, giáp trụ và nghệ thuật binh bị cũng đạt một tầm vóc mới.
- Người Nhật tìm ra cách đúc kiếm
nhiều lớp bằng cách rèn dài và mỏng phôi sắt sau đó cắt đôi, nung lên rồi chập
hai nửa lại tiếp tục rèn, tạo được những vân thớ (jihada) khác lạ được
gọi dưới những tên như itame, masame, mokume, ayasugi (long tuyền đối nguyệt), khiến những
lưỡi kiếm cấu thành từ rất nhiều lớp thép, vừa dẻo dai vừa cứng rắn. Những vân
đó có khi giống như mắt gỗ nhưng cũng có khi uốn lượn như làn sóng. Thanh kiếm
không còn là một vũ khí mà đã thành một tác phẩm mỹ thuật.
- Các thợ rèn thuộc tỉnh Soshu
tìm ra được cách pha trộn thép mềm với thép cứng để làm lưỡi kiếm, vẫn sắc bén
mà lại ít bị mẻ. Họ cũng tiêu chuẩn hoá chiều dài và cải thiện mũi kiếm để khi
kiếm bị gãy vẫn có thể mài và dùng tiếp. Trước kia kiếm Nhật chỉ uốn cong nơi
gần cán nay từ từ cong đều và cũng thuôn dần ra tới tận mũi. Người Nhật cũng
chế tạo loại giáp trụ nhẹ hơn để bộ binh dễ di động, dễ phân tán đồng thời
nghiên cứu cách dùng kiếm đánh cận chiến thay vì dùng cung bắn từ xa.
Thợ rèn kiếm Yoshido Yoshihara đốt lò nung thép |
Thợ rèn kiếm Yoshido Yoshihara Đập thép đã nung. |
Phong tục cổ truyền của Nhật
Bản là khi gia đình sinh một đứa con trai, mỗi người dân làng sẽ đến mừng cho
quý tử một ít mạt sắt. Sắt đó sau này, khi cậu bé trưởng thành, sẽ được một
kiếm sư rèn thành kiếm cho cậu. Trước khi rèn một thanh kiếm, bao giờ kiếm sư
cũng trai giới, cầu xin thần linh phù hộ và sau đó mặc lễ phục để làm việc.
Người ta nói rằng kiếm sư rèn kiếm không còn là một công việc mà là một nghi
lễ, thân tâm hợp nhất và tập trung toàn bộ tinh thần từ khi bắt đầu cho tới khi
hoàn tất.
- Thời kỳ nước Nhật chia thành
hai gọi là Nam Bắc Triều (1333-1393). Thời kỳ này đánh dấu cao điểm
của thuật đúc kiếm. Lưỡi kiếm bây giờ dài đến 1 mét gọi là no-dachi và kiếm đúc cho đền đài có khi còn dài
hơn. Kiếm dài có lợi thế cho người đi bộ và chiến đấu trong đêm tối nên thường
đeo sau lưng và rút ngược lên qua vai.
- Khi ra ngoài người ta đeo
trường kiếm (katana) và đoản kiếm (wakizashi) nhưng khi ở trong
nhà thì chỉ đeo đoản kiếm và được tháo ra đặt ngay cạnh giường khi đi ngủ. Đối
với người võ sĩ, thanh kiếm là vật bất ly thân, không rời xa trong bất cứ
trường hợp nào.
* Rèn kiếm (kitaeru):
Kitaeru được coi như một trong
những truyền thống cần phải bảo tồn cùng với nhiều bộ môn nghệ thuật khác để
duy trì tinh thần đặc thù của người Nhật. Lẽ dĩ nhiên rèn không phải nói về
nghề thợ rèn một cách tổng quát mà là kỹ thuật rèn kiếm, một truyền thống lâu
đời được coi trọng, vì thanh kiếm không phải chỉ là một món khí giới mà còn
tượng trưng cho tinh thần cao thượng của võ sĩ đạo.
- Thanh kiếm của người Nhật không
phải chỉ là một lưỡi dao dài dùng làm vũ khí mà mang theo rất nhiều ý nghĩa.
Trong quá trình chế tạo, người ta không những phải thử để xem nó có đủ sắc để
xuyên qua nhiều lớp áo giáp bằng sắt mà có khi còn thí nghiệm ngay trên thân
xác con người để coi có "ngọt" hay không?
- Người Trung Hoa cũng như người
Việt Nam cũng chú trọng đến kiếm nhưng quá lắm chỉ coi như một kỹ năng cần điêu
luyện, trái lại người Nhật lại nâng thanh kiếm và cách sử dụng lên hàng
"đạo" – kiếm đạo (kendo) – và thanh kiếm gắn liền với sinh
mạng và nhân cách của người kiếm sĩ (samurai).
- Trong khi kiếm Âu Châu chỉ là
một lưỡi thép duy nhất, kiếm Nhật bao gồm lá thép, sắt non và thép già, mỗi
loại có hàm lượng carbon khác nhau. Lõi của thanh kiếm (shingane)
được rèn bằng cách pha trộn giữa sắt thô với thép lá. Sau đó mới là vỏ bao bên
ngoài (hadagane) cái lõi đó cũng bằng kỹ thuật trên nhưng dùng sắt non
và thép lá. Vỏ bao có thể cần dát ra rồi gập lại 15 lần nhưng nếu nhiều hơn nữa
có thể làm thép trở nên dòn và không đều. Lưỡi kiếm sau đó được chêm vào giữa
những lớp vỏ bao, rèn cho thật liền lạc khít khao. Lớp vỏ mềm giúp cho cái lõi
cứng ở bên trong, khiến cho lưỡi kiếm chịu được va chạm mạnh, dẻo dai hơn kiếm
đúc theo kiểu Âu tây.
- Người Nhật cũng dùng phương
pháp bao một lớp vỏ mềm bên ngoài để tạo nên những làn sóng trang điểm cho lưỡi
kiếm. Khi ruột kiếm đã chèn vào giữa và hình dạng đã hoàn thành, một loại hợp
chất đặc biệt gồm tro rơm và bùn đỏ được trét lên trên mặt lưỡi kiếm rồi để cho
khô. Sau đó người ta dùng một thanh tre để khắc lên lớp bùn những hoa văn rồi lại để vào trong lò nung tiếp, lấy ra khắc theo mẫu lên lưỡi kiếm để
đến khi chà láng những hình vẽ đó sẽ hiện ra. Trong giai đoạn này lưỡi kiếm
được bao bằng đất và tro kia phải nóng đến mức có "màu của Mặt Trăng tháng
2 hay tháng 8". Lớp bùn đó chỗ dày chỗ mỏng, thường ở lưỡi kiếm mỏng nhất,
các nơi khác dày hơn để khi nung lưỡi kiếm sẽ cứng mềm khác nhau tuỳ theo từng
khu vực. Lưỡi thép, phần cứng nhất của thanh kiếm mà người ta gọi là hamon có những hạt khác nhau gọi là nievà nioi. Nie (nước sôi) tượng trưng cho tinh thần
hùng dũng, cứng cỏi, nioi (hương thơm nhìn được) tượng trưng cho
sự cao thượng, quý phái. Những hạt này có được do sự gập đi gập lại và cũng là
một thứ dấu hiệu của mỗi trường vì mỗi phương pháp có những vân riêng. Nioi mắt thường không trông thấy, chỉ gợn
lên một làn sương mỏng như giải ngân hà một đêm
sao. Hạt nie thì to hơn, trông lấm tấm như móc buổi
sáng hay một chùm tinh tú. Những ba văn (hamon) đó được đặt tên, hoặc
mây, sóng biển, dãy núi, hoa... cũng giống như người Trung Hoa đặt tên cho vân
trên bảo kiếm của họ. Người thợ không phải chỉ đúc một thanh kiếm tốt mà còn
làm sao cho mỹ thuật, đó mới thực là vấn đề.
- Nét cong của thanh kiếm Nhật
không phải chỉ do kỹ thuật rèn hay đập mà còn là một biểu trưng văn hoá xuất
hiện trên nhiều công trình truyền thống khác, từ mái cong trên đền đài, chùa
chiền, cung điện, kể cả thư pháp. Người Nhật vẫn cho rằng nếu đúc một thanh
kiếm thẳng băng thì không những thô kệch mà còn quá thực dụng, không nói lên
tính nghệ thuật của người võ sĩ. Chính vì thế, họ luôn luôn tạo những đường
cong, uốn lên lượn xuống để biến một vũ khí chiến đấu thành một tác phẩm. Tiến
trình rèn thép, các loại chất liệu trong mỗi giai đoạn đến nay vẫn còn là những
bí mật nghề nghiệp không truyền ra ngoài và cũng là thước đo sự tài hoa, khéo
léo cũng như "tay nghề" của các bậc sư.
- Nhắc đến nghề rèn kiếm, không
thể không nhắc đến Masamune và Muramasa.
Masamune còn được gọi là Goro Nyudo
Masamune (thầy tu Goro Masamune) và là một trong những thợ rèn kiếm giỏi nhất
trong lịch sử Nhật Bản. Mặc dù không có nhiều tư liệu lịch sử về cuộc đời của
Masamune nhưng người ta tin rằng ông sống trong những năm cuối thế kỉ 13 đầu
thế kỉ 14 tại tỉnh Sagami. Tại Nhật Bản, giải thưởng mang tên Masamune luôn
được dành cho những thợ rèn kiếm xuất sắc nhất.
Chân dung thợ rèn kiếm Nhật Masamune |
- Những thanh kiếm của Masamune
luôn đẹp và cực kì sắc bén mặc dù khi đó thép rèn kiếm có chất lượng rất tồi.
Ông được xem là người đã đem lại sự hoàn hảo cho nghệ thuật rèn kiếm.
- Mỗi thanh gươm của Masamune làm
ra luôn được đặt tên và là một tác phẩm nghệ thuật. Biểu tượng của lãnh chúa
Tokugawa, thanh gươm "Honjo Masamune", là một trong những thanh gươm
nổi tiếng nhất của Masamune.
- Những thanh gươm của Masamune
thường rất khác biệt với các tác phẩm của Muramasa một thợ rèn kiếm nổi tiếng
khác của Nhật Bản. Nhiều tài liệu đã cho rằng Muramasa là học trò của Masamune
nhưng thực chất hai ông không sống cùng thời. Muramasa bắt đầu nổi tiếng trong
những năm đầu thế kỉ 15. Trong các trò chơi, Muramasa thường là những thanh ma
kiếm khát máu, trong khi Masamune lại là thánh kiếm tiêu diệt cái ác.
- Có một câu chuyện kể về cuộc
thi giữa Muramasa và Masamune xem ai là người rèn kiếm giỏi nhất. Cả hai đều
làm việc không mệt mỏi để hoàn thiện tác phẩm của mình. Sau khi hoàn thành cả
hai thanh gươm được đem ra thử nghiệm. Thanh gươm của Muramasa có tên là Juuchi
Yosamu (10.000 đêm lạnh) và của Masamune là Yawaraka-Te (Bàn tay nhân ái).
- Người ta cắm chúng xuống một
dòng suối. Thanh gươm của Muramasa cắt tất cả những gì lướt qua nó từ lá cây,
những con cá thậm chí còn chia đôi cả dòng nước. Còn thanh kiếm của Masamune
thì không cắt bất cứ thứ gì. Sau khi thấy kết quả Muramasa đã lên tiếng cười
nhạo cho rằng tài nghệ của Masamune quá kém cỏi.
- Nhưng một nhà sư sau khi chứng
kiến cuộc thi đã giải thích: thanh gươm đầu tiên cắt tất cả là một thanh gươm
sắc nhưng nó là thanh gươm khát máu, không phân biệt được người tốt kẻ xấu.
Thanh gươm thứ hai là mới thực sự là thanh gươm báu vì nó không làm tổn thương
đến những sinh linh vô tội.
- Có một kết thúc khác của câu
chuyện đó là cả hai thanh gươm đều cắt mọi thứ lướt qua. Nhưng chiếc lá bị chia
đôi bởi thanh gươm của Masamune đã liền lại ngay. Thanh Yawaraka-Te được coi là
thanh kiếm phục sinh trong khi của Muramasa là thanh gươm của chết chóc. Đã là
kiếm sĩ, không ai là không mơ ước được sở hữu một trong hai thanh kiếm trên.
Kết quả thì giống nhau: họ sẽ trở thành những tay kiếm độc bá thiên hạ nhưng
hậu quả của những ai sở hữu thanh tà kiếm Yuuchi Yosamu của Muaramasa thì thật
khủng khiếp: người sử dụng ngày càng bị thanh tà kiếm không chế, cuối cùng trở
nên điên loạn, sẵn sàng giết chết bạn bè, vợ con và thậm chí cả bản thân mình
mà không hề run tay.
- Mặc dù câu chuyện trên chỉ là
tưởng tượng nhưng cả Masamune và Muramasa đều được coi là những biểu tượng về
nghệ thuật rèn kiếm của Nhật Bản.
* Mài kiếm:
- Việc mài kiếm của một nghĩa sĩ
khác hẳn công việc mài lưỡi kiếm sau khi một danh thủ đã rèn xong. Rèn kiếm mới
chỉ là một chặng đường, tuy quan trọng nhưng không phải là hoàn bị mà còn nhiều
công việc khác cũng cam go không kém.
- Công việc hoàn chỉnh thanh kiếm
chỉ là mài cho sắc mà phải gọi là "chà láng" hay đánh bóng. Đánh bóng
một thanh kiếm phải qua 13 giai đoạn, dùng 13 loại đá mài khác nhau và 13 động
tác khác nhau và mất trung bình 120 giờ. Để mài một lưỡi kiếm, kiếm sư dùng sáu
cục đá mài khác nhau, từ loại nhám xuống dần loại mịn
hơn và sau cùng để đánh bóng. Trước khi mài, phải nghiên cứu kỹ càng
"thớ" (texture) và "mẫu" (pattern) của thanh
kiếm, không phải cùng một lúc mà chỉ từng khoảng 3 cm một. Việc giữ sao
cho tay phải và tay trái gần như cân bằng tuyệt đối là một công tác sinh tử vì
nếu hai tay chỉ lệch đi một khoảnh khắc thì có thể hỏng luôn cả lưỡi kiếm.
- Sau khi mài xong, kiếm sư kẹp
hai hòn đá mài mỏng dính trên đầu ngón tay và vuốt theo lưỡi kiếm để đánh bóng.
Ông cầm ngang lưỡi kiếm để cho ánh nắng soi lên từng mili mét để kiểm soát công
trình của mình lần cuối cùng. Không có hai thanh kiếm nào giống hệt nhau, mỗi
thanh kiếm có hình dáng khác nhau và có những đặc tính khác nhau. Mài kiếm
chính là làm sao cho thanh kiếm thể hiện được tối ưu cái "tinh thần"
của nó, để hiển lộ cái "tận mỹ" của nó, để thoát ra cái "huy
hoàng" của lưỡi thép đã hoàn thành. Kiếm mài đúng cách mới có thể hiển
hiện được hết tài năng của người rèn kiếm.
* Bao kiếm:
Kiếm & bao kiếm |
- Một lưỡi kiếm dù quý đến đâu
nếu không được lắp vào một cán kiếm thích hợp và để trong một bao kiếm đúng
cách thì vẫn không thể nào gọi là hoàn hảo. Muốn làm một bao kiếm, người kiếm
sư phải làm hai mảnh vừa khít theo đường cong của lưỡi kiếm rồi dán lại với
nhau. Chất keo dán là một loại hồ nấu bằng gạo rồi nghiền cho nhuyễn bằng đũa
tre. Người ta không dùng các loại super-glue vì e ngại sau này phải tách hai
thanh gỗ ra trong trường hợp lưỡi kiếm bị sét và chỉ có hồ làm bằng gạo mới
khỏi làm hư thanh gỗ. Bí mật của cách làm bao kiếm là sao cho có cảm tưởng là
bao và lưỡi khít khao từ đầu đến cuối nhưng thực ra chỉ tiếp xúc với nhau ở gần
cán kiếm mà thôi và lưỡi kiếm không nơi nào quá chặt vì nếu không, độ ẩm của gỗ
sẽ làm cho kiếm bị rỉ.
- Tuy chỉ là một công nghệ giản
dị như thế, việc làm bao kiếm đòi hỏi nghệ nhân dùng 15 loại bàn bào khác nhau, to có, nhỏ có mỗi thứ một việc.
- Tsuba tsuba là miếng chặn tay cầm, phân cán kiếm và
lưỡi kiếm ra làm 2 phần khác nhau, người Trung Hoa gọi là kiếm cách. Tsuba cũng
được coi là một nghệ phẩm và hiện nay cũng có nhiều người sưu tầm, nhiều miếng
có giá cả rất cao.
- Tsuba được khoét ở giữa để tra lưỡi kiếm và để chặn cho kiếm
của địch khỏi lướt vào tay mình.
Một vài kiểu miếng chặn tay cầm của kiếm Nhật |
- Tuy nhiên, người ta cũng trang
trí bằng nhiều hình thức khác, cây cỏ, hoa lá, thú vật... có ý nghĩa hay mang
một nguyện vọng để được may mắn. Nguyên thuỷ, kiếm cách do thợ rèn kiếm hay thợ
làm áo giáp sản xuất nhưng từ Thế kỷ 16 trở về
sau thì do những nghệ nhân thực hiện như một tác phẩm riêng biệt. Tsuba có thể
bằng sắt thuần tuý hay nạm vàng, bạc, đồng ... thử
kiêm (tameshi-giri) để đối phó với sự sắc bén của thanh kiếm họ chế tạo
được, người Nhật cũng đưa vấn đề che chở cho khỏi bị kiếm chém đứt thành một
nghệ thuật khác.
- Đó là việc chế tạo một bộ áo
giáp chắc chắn – bao gồm 12 món khác nhau, mặc vào rất công phu để bảo vệ tính
mạng của võ sĩ. Tuy nhiên, đối với một thanh bảo kiếm trong tay một cao thủ về
kiếm đạo thì bộ áo giáp kia không đủ hiệu quả. Chỉ một nhát kiếm, cả người lẫn
giáp có thể xẻ làm hai. Những thanh bảo kiếm thực sự đều là của gia bảo truyền
từ đời nọ sang đời kia, tham dự trong hết trận đánh này đến trận đánh khác.
Những thanh kiếm đó đã được thử bằng chính sinh mạng con người.
- Tuy nhiên, trước khi được dùng
để chiến đấu, kiếm Nhật sau khi hoàn tất phải được thử, thường là với một người bù nhìn làm
bằng rơm. Nếu thanh kiếm có thể chặt đứt được một bó rơm, người ta sẽ thử tiếp
trên thân người, thường là dùng một xác chết. Xác người được treo lên theo
nhiều kiểu khác nhau để thử kiếm theo đủ mọi hướng, đủ mọi kiểu, mọi đòn. Cũng
có khi thanh kiếm được thử ngay trên những tử tội. Có 16 chỗ trên thân người
dùng để thí nghiệm, khó cắt nhất là chém ngang hông sao cho đứt cả hai xương
đùi, dễ nhất là chém đứt cổ tay.
- Ngày hôm nay, những võ sư vẫn
huấn luyện môn đồ phương pháp dùng kiếm để chặt đứt những bó rơm ướt, lõi bằng
cọc tre. Mỗi ngày người võ sĩ phải tập hàng trăm lần cho thật nhuần nhuyễn.
Kiếm thử xong sẽ được các chuyên giá đánh giá và xếp hạng.
- Kết luận việc rèn một thanh
kiếm đã được nâng lên thành một nghi lễ mang tính chất huyền bí. Người thợ rèn
phải trai giới trong nhiều ngày, qua những thể thức thanh tẩy và khi làm việc
họ mặt một bộ đồ trắng như một thiền sư, đạo sĩ. Ngay từ thế kỷ 13, kiếm Nhật đã nổi tiếng trên thế giới mà không nơi nào sánh
kịp. Người Trung Hoa cũng nói đến bảo kiếm nhưng phần lớn chỉ là truyền thuyết
và huyền thoại, chỉ nghe mà không thấy. Trái lại kiếm Nhật có thật và nhiều
người đã bỏ một khoản tiền lớn để đặt hay mua. Theo những chuyên gia về luyện kim, mãi đến thế kỷ 19, người Âu châu mới đủ trình độ để tạo được những hợp kim tốt như thép của Nhật trước đó 600 năm và
cũng phần lớn là vì học hỏi được phương pháp của xứ Phù Tang. Kiếm Nhật cũng nói lên một đặc tính riêng của dân tộc này, làm
việc gì cũng muốn đến chỗ tận thiện, tận mỹ.
- Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, Chị Em đã xem Blog:
- Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh, Chị Em đã xem Blog:
Blogger Nguyen Minh Duc |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét