Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2015

Lịch sử, nguồn gốc, sự ra đời của các thanh đao.

- Trong các loại khí giới thì đao là thứ khí giới phổ 

thông và lợi hại hơn cả. Đao gồm các loại đơn đao, 

song đao và đại đao. Tuỳ theo các môn phái võ mà 

đao có khác nhau về tên gọi. Phép sử dụng đao làm 

sao cho khẩn mật cũng đòi hỏi phải có sức lực. 

Một thanh đơn đao phân làm ngũ vị, gồm Thiên, 

Địa, Quân, Thần, Sư; cũng như trong ngành văn có 

Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín vậy.


Đơn Đao
Đại-Đao làm bằng Thép với một cạnh bén, dùng theo Đơn Thủ Đaocủa Khởi Nghĩa Quân "Thái-Bình Thiên-Quốc 
dưới thời Từ-Hy Thái-Hậu (1861~1908) 
TRUNG-HOA Khoảng năm 1900

- Lưng đao là Thiên. Lưỡi đao là Địa. Giữa 
chuôi đao là Quân. Bộ phận che chuôi đao (đao 
bàn) là Thần. Phần cuối chuôi đao là Sư. Ba tấc về 
phía mũi đao gọi là Liệu nhận. Tua chỉ đỏ ở đại 
đao gọi là Xuy phong. 

1.Đơn đao: phân làm 6 thức là Triển, Mạt, Câu, 
Đoá, Khảm, Phách:
- Mũi đao, lưỡi đao hướng ra ngoài là Triển; 
Hướng vào trong là Mạt; Co lại là Câu, Đưa 
ngang là Đoá; Giơ lên quá đầu là Khảm; Hai tay 
Nắm chuôi đao chặt xuống là Phách. 

- Kích thước và trọng lượng đao tùy sở trường của 
người sử dụng, thông thường tay buông thõng, cán 
đao đặt trong hổ khẩu của bàn tay, đao dựng đứng, 
mũi đao ngang vành tai dưới là vừa.

- Về phép sử dụng đao thì không nhảy nhót nhiều. 
Khi luyện đao, một tay cầm đao, còn một tay 
không. Thường thì cầm đao tay phải. Sự thật thì 
tay cầm đao không khó, khó nhất là tay không cầm 
đao. Cho nên khi xem đao pháp của một người tới 
trình độ nào, ta chỉ cần nhìn vào tay không cầm 
đao của người đó, xem có tiến thoái tự nhiên theo 
đao pháp không. Đối với song đao, bộ pháp là 
quan trọng, đường đao tuy phức tạp nhưng phải 
theo thứ tự, không được rối loạn. Vì thế ngạn ngữ 
võ học nói rằng: “Đơn đao xem triển thủ, song 
đao xem bộ pháp”.

Biểu diễn đơn đao
Võ sinh biểu diễn đơn đao.
Biểu diễn song đao
Nhóm võ sinh biểu diễn song đao
- Luyện đao cốt yếu ở chỗ định thủ, định thủ là tay 
phải làm chủ được cây đao, không cúi đầu, cong 
lưng, thế đao đánh ra thu vào có mức độ, phải 
tưởng tượng trước mắt có địch thủ đang giao đấu 
với mình. Trọng lượng cây đao cũng phải được lưu 
ý. Tập tục luyện đao thường mãnh liệt đã trải cả 
ngàn năm. Thời xưa lính tráng đấu nhau bằng khí 
giới ngắn, người dùng đao rất đông. Múa đao lên, 
đao rít vù vù, hàn quang khiếp người, chỉ nghe gió 
đao rít mà không thấy bóng người, dũng mãnh, oai 
võ, hùng mạnh có thừa. Phong cách như mãnh hổ. 
Mũi đao, lưỡi đao là bộ phận nhọn sắc nhất chủ về 
tấn công, sống đao rộng, dài, kiên cố chuyên về 
phòng thủ.

- Thời xưa, đao lại khá nặng, khi muốn chặt, bổ 
nhát nào cho kiến hiệu thì ra đao phải mau le, có 
lực. Để biểu hiện được đặc điểm mạnh của đao 
thuật thì cần phải thành thạo, nắm vững các loại 
đao pháp và lực pháp, phối hợp chặt chẽ được thân 
pháp, bộ pháp, nhãn pháp, đao pháp. Khi luyện tập 
đao thì khí đầy lực mạnh, thân và đao hoà hợp, đao 
theo thân chuyển, từ thân thể kéo tứ chi để gíup 
đao phát lực, bộ pháp phải nhẹ nhàng linh hoạt, 
nhanh nhẹn, vọt nhảy, xoay chuyển, tiến lùi tự 
nhiên thoải mái, hai mắt tinh anh, ánh sáng hừng 
hực, vung đao nhanh chậm, nặng nhẹ tương ứng, 
thu duỗi tự nhiên.

- Đao pháp cơ bản của đơn đao có quấn đầu ôm 
gáy, múa hoa, cắt đỡ, bổ, chặt, thọc, đâm, chém, 
vớt…

2. Đại Đao:

Cái trên cùng là Siêu Đao hay còn gọi là Trường Đao, chuyên để xài trên lưng ngựa, Cái giữa là Thanh Long Yển Nguyệt Đao hay còn gọi là Quan Đao hay Thanh Long ĐaoCái
dưới cùng là 
Trảm Mã Đao
hay 
Đại Đao hay Phác
Đao
 hay Mã Tấu.
- Đại đao được gọi là “nguyên soái của trăm quân”, phần lớn cầm chắc hai tay mà vũ động. Yếu lĩnh của đao pháp gọi là “đại đao xem lưỡi” chính là các loại đao pháp đều vận dụng rõ ràng ở lưỡi đao. Khi diễn luyện, một chiêu, một thức bổ mạnh, chém rộng, một động, một tĩnh đều uy vũ đường đường.

- Chiến tranh cổ đại, đại đao thường dùng cho 

chiến tướng làm binh khí giao đấu ở trên lưng 

ngựa, uy lực rất lớn. Cả cây đao do thân đao, cán 

đao, đĩa đao và vòng kêu là bốn bộ phận lớn cấu 

tạo nên. Chiều dài và độ nặng đại đao tùy sở 

trường danh gia sử dụng. Đao có độ nặng dễ đằm 

tay và ra chiêu hiệu quả, độ dài vừa theo chiều cao 

của người sừ dụng, dài quá sẽ vướng và chậm, ngắn 

quá thì không phát huy được hết uy lực của đao.

- Một số chủng loại đao nổi tiếng như Quan Công 

đại đao (Guan Yi big knife), Thanh long yểm 

nguyệt đao (The big knife with a green dragon and 

the crescent moon)

Quan Vũ và Thanh Long Yểm Nguyệt Đao
Quan Công (Quan Vân Trường:sinh 221-mất 265) và Thanh Long Yểm Nguyệt Đao trên lưng ngựa.

Xuân Thu đại đao (The big 

knife of Spring and Autumn), Cửu hoàn đại đao 

(Nine rings big knife) Trảm mã đao (Chop horse 

big knife)…

Trảm Mã Đao
Trảm Mã Đao bằng Thép với một Cạnh Bén, dùng theo Song-Thủ Đao.

- Luận về đại đao, Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân 

Trường – một trong ngũ hổ tướng đời Tam Quốc 

(221 – 265), được hậu thế tôn xưng là Thánh 

Trung nghĩa thiên thu” (God of Righteousness), 

là người rất nổi tiếng về sử dụng Thanh long đại 

đao nói rằng: “Đường đao dễ phát khó thu, khó mà 

nắm cho linh hoạt được, để bù lấp khuyết điểm ấy 

phải rèn sức tay, tập trung sức lực vào hai cánh tay, 

dồn vào cán đầu, dùng sức làm cho cánh tay bạt 

đao hợp nhất, như vậy mới có thể sử dụng linh hoạt 

và như ý.”

- Đao pháp chủ yếu có chém, bổ, miết, xoay, khều, 

gác, đẩy, kéo, gạt, đỡ, vớt, đâm…Các môn phái, 

võ phái, võ đường Võ cổ truyền Việt Nam đều có 

bài bản về đao.
Các anh bộ đội luyện tập với thanh đại đao.
- Trong hệ thống binh khí Võ cổ truyền, đại đao 

còn có tên goi là “siêu”. Siêu là loại hình đao lớn, 

cán dài giống như đại đao, theo nghiên cứu phân 

tích kỹ thuật lưỡi siêu nhỏ hơn đại đao. Sử chép Lý 

Thường Kiệt (1019 – 1105), danh tướng triều Lý, 

oai phong lẫm liệt trên lưng ngựa, bằng những võ 

công kỳ vĩ, với thanh đại đao tung hoành chiến 

trận, Bắc đánh Tống, Nam bình Chiêm, bách chiến 

bách thắng, đã làm rạng rỡ uy danh một thời cho tổ 

quốc.

- Sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn – Quách 

Giao ghi lại thời Tây Sơn có Tam Thần Đao đó là 

Ô long đao của Nguyễn Huệ, Huỳnh long đao của 

Trần Quang Diệu và Xích long đao của Lê Sĩ 

Hoàng.

- Ô long đao là tên đao của Nguyễn Huệ. Truyền 

rằng một hôm đi tuần nơi đèo An Khê, khi cùng 

anh là Nguyễn Nhạc lo xây dựng cơ đồ khởi nghĩa, 

để tạo không khí thần linh, Nguyễn Huệ đã loan tin 

có hai con rắn mun lớn đón đường dâng đao rồi từ 

tạ vào rừng. Tại nơi rắn dâng đao, Nguyễn Huệ cho 

lập miếu thờ gọi là Miếu Xà.

- Thanh Ô long đao, cán bằng gỗ mun đen nhánh, 

lưỡi đao cũng bằng một loại kim khí màu đen, 

không có hào quang mà chỉ có khí lạnh. Trong trận 

Rạch Gầm, Xoài Mút năm Giáp Thìn (1785). 

Nguyễn Huệ đã sử dụng thanh Ô long đao chém 

tướng quân Xiêm lên đến hằng trăm người. Năm 

Kỷ Dậu (1789) Ô long đao lại đẫm máu quân 

Thanh xâm lược.

- Huỳnh long đao là thanh thần đao của sư phụ 

Diệp Đình Tòng truyền tặng cho tướng quân Trần 

Quang Diệu. Sở dĩ có tên Huỳnh long vì tại nơi 

đầu con cù ngậm lưỡi đao được thếp vàng. Cặp 

song đao Ô long và Huỳnh long phối hợp tung 

hoành trong trận đánh quân Xiêm. Các chiến công 

của Trần Quang Diệu đều do thanh Huỳnh long 

góp phần tạo nên.

- Xích long đao của tướng Lê Sĩ Hòang. Sở dĩ có 

tên Xích long vì tại nơi đầu con cù ngậm lưỡi đao 

được sơn màu đỏ. Nguyên sau khi dẹp xong quân 

Mãn Thanh, Vua Quang Trung mở hội thi võ để 

chọn thêm nhân tài giữ nước. Lê Sĩ Hòang, người 

quê Quảng Nam ra kinh ứng thí. Hoàng dũng sĩ, lúc 

nhỏ nhà nghèo, chăn trâu cho một phú ông trong 

thôn. Nhà gần núi nên một hôm trâu bị cọp bắt, 

Hoàng sợ chủ hỏi tội nên chạy trốn vào rừng sâu. 

Lạc đường không tìm được lối ra, gặp dị nhân 

truyền thụ võ nghệ. Lê Sĩ Hoàng có sức mạnh hơn 

người, võ nghệ tuyệt luân, chuyên sử dụng cây 

Xích long đao của sư phụ truyền cho.


- Nguyên nghĩa võ thuật là nghệ thuật quân sự 

(military arts). Ngày xưa quyền thuật, binh khí 

dùng tác chiến nên chiêu thức yêu cầu thực dụng, 

hiệu quả. Nếu những chế tác “đầu Ngô, mình Sở”, 

lấy bên này ghép lại bên kia, lấy côn pháp chế làm 

thương pháp, lẫn lộn kiếm pháp với đao pháp, mua 

may quay cuồng tưởng là đẹp mắt nhưng đòn thế 

vô dụng thì không phải là yếu lĩnh của võ thuật. 

Văn có văn phạm, võ có võ lý, nhất nhất phải theo 

pháp của từng môn.

- Anh hùng hảo hớn nhiều người dùng đao. Chiến 

tranh chống thực dân bảo vệ tổ quốc Việt Nam, các 

nghĩa quân, nghĩa sĩ dùng giáo, mác, gậy, gươm, 

đao… áp dụng cùng chiến thuật du kích rất hiệu 

quả. Hậu thế hôm nay nếu không hiểu được ý nghĩa 

của Võ cổ truyền Việt Nam, không biết tôn vinh 

giá trị lịch sử, văn hóa đúng tầm thì thật là có tội 

với tiền đồ dân tộc.


-Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh,  

Chị, Em đã xem blog.


Blogger Nguyễn Minh Đức
Blogger Nguyen Minh Duc

                                                                              




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét