- Trong
các loại khí giới thì đao là thứ khí giới phổ
thông và lợi hại hơn cả. Đao gồm
các loại đơn đao,
song đao và đại đao. Tuỳ theo các môn phái võ mà
đao có khác
nhau về tên gọi. Phép sử dụng đao làm
sao cho khẩn mật cũng đòi hỏi phải có
sức lực.
Một thanh đơn đao phân làm ngũ vị, gồm Thiên,
Địa, Quân, Thần, Sư;
cũng như trong ngành văn có
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín vậy.
Đại-Đao làm bằng Thép với
một cạnh bén, dùng theo Đơn Thủ Đaocủa Khởi Nghĩa Quân "Thái-Bình Thiên-Quốc dưới thời Từ-Hy Thái-Hậu (1861~1908) TRUNG-HOA Khoảng năm 1900 |
- Lưng đao là Thiên. Lưỡi đao là Địa. Giữa
chuôi đao là Quân. Bộ
phận che chuôi đao (đao
bàn) là Thần. Phần cuối chuôi đao là Sư. Ba tấc về
phía
mũi đao gọi là Liệu nhận. Tua chỉ đỏ ở đại
đao gọi là Xuy phong.
1.Đơn đao: phân
làm 6 thức là Triển, Mạt, Câu,
Đoá, Khảm, Phách:
- Mũi đao, lưỡi đao hướng ra
ngoài là Triển;
Hướng vào trong là Mạt; Co lại là Câu, Đưa
ngang là Đoá; Giơ
lên quá đầu là Khảm; Hai tay
Nắm chuôi đao chặt xuống là Phách.
- Kích thước và trọng lượng đao tùy sở trường của
người sử dụng, thông thường tay buông thõng, cán
đao đặt trong hổ khẩu của bàn tay, đao dựng đứng,
mũi đao ngang vành tai
dưới là vừa.
- Về phép sử dụng đao thì không nhảy nhót nhiều.
Khi luyện đao,
một tay cầm đao, còn một tay
không. Thường thì cầm đao tay phải. Sự thật thì
tay cầm đao không khó, khó nhất là tay không cầm
đao. Cho nên khi xem đao pháp
của một người tới
trình độ nào, ta chỉ cần nhìn vào tay không cầm
đao của người
đó, xem có tiến thoái tự nhiên theo
đao pháp không. Đối với song đao, bộ pháp
là
quan trọng, đường đao tuy phức tạp nhưng phải
theo thứ tự, không được rối
loạn. Vì thế ngạn ngữ
võ học nói rằng: “Đơn đao xem triển thủ, song
đao xem bộ
pháp”.
- Luyện đao cốt yếu ở chỗ định thủ, định thủ là tay
Võ sinh biểu diễn đơn đao. |
Nhóm võ sinh biểu diễn song đao |
phải làm chủ
được cây đao, không cúi đầu, cong
lưng, thế đao đánh ra thu vào có mức
độ, phải
tưởng tượng trước mắt có địch thủ đang giao đấu
với mình.
Trọng lượng cây đao cũng phải được lưu
ý. Tập tục luyện đao thường mãnh liệt đã
trải cả
ngàn năm. Thời xưa lính tráng đấu nhau bằng khí
giới ngắn, người dùng
đao rất đông. Múa đao lên,
đao rít vù vù, hàn quang khiếp người, chỉ nghe gió
đao rít mà không thấy bóng người, dũng mãnh, oai
võ, hùng mạnh có thừa. Phong
cách như mãnh hổ.
Mũi đao, lưỡi đao là bộ phận nhọn sắc nhất chủ về
tấn công,
sống đao rộng, dài, kiên cố chuyên về
phòng thủ.
- Thời xưa, đao lại khá nặng, khi muốn chặt, bổ
nhát nào cho kiến
hiệu thì ra đao phải mau le, có
lực. Để biểu hiện được đặc điểm mạnh của đao
thuật thì cần phải thành thạo, nắm vững các loại
đao pháp và lực pháp, phối hợp
chặt chẽ được thân
pháp, bộ pháp, nhãn pháp, đao pháp. Khi luyện tập
đao thì
khí đầy lực mạnh, thân và đao hoà hợp, đao
theo thân chuyển, từ thân thể kéo tứ
chi để gíup
đao phát lực, bộ pháp phải nhẹ nhàng linh hoạt,
nhanh nhẹn, vọt
nhảy, xoay chuyển, tiến lùi tự
nhiên thoải mái, hai mắt tinh anh, ánh sáng hừng
hực, vung đao nhanh chậm, nặng nhẹ tương ứng,
thu duỗi tự nhiên.
- Đao pháp cơ bản của đơn đao có quấn đầu ôm
gáy, múa hoa, cắt đỡ,
bổ, chặt, thọc, đâm, chém,
vớt…
2. Đại Đao:
- Chiến tranh cổ đại, đại đao thường dùng cho
chiến tướng làm binh khí giao đấu ở trên lưng
ngựa, uy lực rất lớn. Cả cây đao do thân đao, cán
đao, đĩa đao và vòng kêu là bốn bộ phận lớn cấu
tạo nên. Chiều dài và độ nặng đại đao tùy sở
trường danh gia sử dụng. Đao có độ nặng dễ đằm
tay và ra chiêu hiệu quả, độ dài vừa theo chiều cao
của người sừ dụng, dài quá sẽ vướng và chậm, ngắn
quá thì không phát huy được hết uy lực của đao.
chiến tướng làm binh khí giao đấu ở trên lưng
ngựa, uy lực rất lớn. Cả cây đao do thân đao, cán
đao, đĩa đao và vòng kêu là bốn bộ phận lớn cấu
tạo nên. Chiều dài và độ nặng đại đao tùy sở
trường danh gia sử dụng. Đao có độ nặng dễ đằm
tay và ra chiêu hiệu quả, độ dài vừa theo chiều cao
của người sừ dụng, dài quá sẽ vướng và chậm, ngắn
quá thì không phát huy được hết uy lực của đao.
- Một số chủng loại đao nổi tiếng như Quan Công
đại đao (Guan Yi big knife), Thanh long yểm
nguyệt đao (The big knife with a green dragon and
the crescent moon)
Quan Công (Quan Vân Trường:sinh 221-mất 265) và Thanh Long Yểm Nguyệt Đao trên lưng ngựa. |
Xuân Thu đại đao (The big
knife of Spring and Autumn), Cửu hoàn đại đao
(Nine rings big knife) Trảm mã đao (Chop horse
big knife)…
Trảm Mã Đao bằng Thép với một Cạnh Bén, dùng theo Song-Thủ Đao. |
- Luận về đại đao, Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân
Trường – một trong ngũ hổ tướng đời Tam Quốc
(221 – 265), được hậu thế tôn xưng là Thánh
“Trung nghĩa thiên thu” (God of Righteousness),
là người rất nổi tiếng về sử dụng Thanh long đại
đao nói rằng: “Đường đao dễ phát khó thu, khó mà
nắm cho linh hoạt được, để bù lấp khuyết điểm ấy
phải rèn sức tay, tập trung sức lực vào hai cánh tay,
dồn vào cán đầu, dùng sức làm cho cánh tay bạt
đao hợp nhất, như vậy mới có thể sử dụng linh hoạt
và như ý.”
- Đao pháp chủ yếu có chém, bổ, miết, xoay, khều,
gác, đẩy, kéo, gạt, đỡ, vớt, đâm…Các môn phái,
võ phái, võ đường Võ cổ truyền Việt Nam đều có
bài bản về đao.
Các anh bộ đội luyện tập với thanh đại đao. |
còn có tên goi là “siêu”. Siêu là loại hình đao lớn,
cán dài giống như đại đao, theo nghiên cứu phân
tích kỹ thuật lưỡi siêu nhỏ hơn đại đao. Sử chép Lý
Thường Kiệt (1019 – 1105), danh tướng triều Lý,
oai phong lẫm liệt trên lưng ngựa, bằng những võ
công kỳ vĩ, với thanh đại đao tung hoành chiến
trận, Bắc đánh Tống, Nam bình Chiêm, bách chiến
bách thắng, đã làm rạng rỡ uy danh một thời cho tổ
quốc.
- Sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn – Quách
Giao ghi lại thời Tây Sơn có Tam Thần Đao đó là
Ô long đao của Nguyễn Huệ, Huỳnh long đao của
Trần Quang Diệu và Xích long đao của Lê Sĩ
Hoàng.
- Ô long đao là tên đao của Nguyễn Huệ. Truyền
rằng một hôm đi tuần nơi đèo An Khê, khi cùng
anh là Nguyễn Nhạc lo xây dựng cơ đồ khởi nghĩa,
để tạo không khí thần linh, Nguyễn Huệ đã loan tin
có hai con rắn mun lớn đón đường dâng đao rồi từ
tạ vào rừng. Tại nơi rắn dâng đao, Nguyễn Huệ cho
lập miếu thờ gọi là Miếu Xà.
- Thanh Ô long đao, cán bằng gỗ mun đen nhánh,
lưỡi đao cũng bằng một loại kim khí màu đen,
không có hào quang mà chỉ có khí lạnh. Trong trận
Rạch Gầm, Xoài Mút năm Giáp Thìn (1785).
Nguyễn Huệ đã sử dụng thanh Ô long đao chém
tướng quân Xiêm lên đến hằng trăm người. Năm
Kỷ Dậu (1789) Ô long đao lại đẫm máu quân
Thanh xâm lược.
- Huỳnh long đao là thanh thần đao của sư phụ
Diệp Đình Tòng truyền tặng cho tướng quân Trần
Quang Diệu. Sở dĩ có tên Huỳnh long vì tại nơi
đầu con cù ngậm lưỡi đao được thếp vàng. Cặp
song đao Ô long và Huỳnh long phối hợp tung
hoành trong trận đánh quân Xiêm. Các chiến công
của Trần Quang Diệu đều do thanh Huỳnh long
góp phần tạo nên.
- Xích long đao của tướng Lê Sĩ Hòang. Sở dĩ có
tên Xích long vì tại nơi đầu con cù ngậm lưỡi đao
được sơn màu đỏ. Nguyên sau khi dẹp xong quân
Mãn Thanh, Vua Quang Trung mở hội thi võ để
chọn thêm nhân tài giữ nước. Lê Sĩ Hòang, người
quê Quảng Nam ra kinh ứng thí. Hoàng dũng sĩ, lúc
nhỏ nhà nghèo, chăn trâu cho một phú ông trong
thôn. Nhà gần núi nên một hôm trâu bị cọp bắt,
Hoàng sợ chủ hỏi tội nên chạy trốn vào rừng sâu.
Lạc đường không tìm được lối ra, gặp dị nhân
truyền thụ võ nghệ. Lê Sĩ Hoàng có sức mạnh hơn
người, võ nghệ tuyệt luân, chuyên sử dụng cây
Xích long đao của sư phụ truyền cho.
- Nguyên nghĩa võ thuật là nghệ thuật quân sự
(military arts). Ngày xưa quyền thuật, binh khí
dùng tác chiến nên chiêu thức yêu cầu thực dụng,
hiệu quả. Nếu những chế tác “đầu Ngô, mình Sở”,
lấy bên này ghép lại bên kia, lấy côn pháp chế làm
thương pháp, lẫn lộn kiếm pháp với đao pháp, mua
may quay cuồng tưởng là đẹp mắt nhưng đòn thế
vô dụng thì không phải là yếu lĩnh của võ thuật.
Văn có văn phạm, võ có võ lý, nhất nhất phải theo
pháp của từng môn.
- Anh hùng hảo hớn nhiều người dùng đao. Chiến
tranh chống thực dân bảo vệ tổ quốc Việt Nam, các
nghĩa quân, nghĩa sĩ dùng giáo, mác, gậy, gươm,
đao… áp dụng cùng chiến thuật du kích rất hiệu
quả. Hậu thế hôm nay nếu không hiểu được ý nghĩa
của Võ cổ truyền Việt Nam, không biết tôn vinh
giá trị lịch sử, văn hóa đúng tầm thì thật là có tội
với tiền đồ dân tộc.
-Minh Đức chân thành cảm ơn quý Cô, Bác, Anh,
Chị, Em đã xem blog.
Blogger Nguyen Minh Duc |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét